Bản án số 01/2025/HC-ST ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Yên Bái
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 01/2025/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 01/2025/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 01/2025/HC-ST
Tên Bản án: | Bản án số 01/2025/HC-ST ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Yên Bái |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Yên Bái |
Số hiệu: | 01/2025/HC-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/03/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH 00599 ngày 22/10/2013 của Uỷ ban nhân dân huyện VY, tỉnh Yên Bái cấp cho ông Nguyễn Văn A và bà Dương Thị E đối với thửa đất số 01, tổng diện tích 924m2 (trong đó diện tích đất ở là 150m2; đất trồng cây hàng năm khác là 774m2), tại địa chỉ Thôn HL, xã CQH, huyện VY, tỉnh Yên Bái. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH YÊN BÁI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thị Vân
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Kim Ngọc Sự
Bà Phạm Thị Thanh Bình
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thu Trà - Thư ký Toà án nhân dân tỉnh
Yên Bái
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái tham gia phiên toà:
Bà Nguyễn Thị Bích Thủy - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái,
xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 13/2024/TLST-HC ngày 07 tháng 11
năm 2024 về “Khiếu kiện Quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất
đai” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2025/QĐXXST-HC ngày 07
tháng 3 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị T
Địa chỉ: Thôn HL, xã CQH, huyện VY, tỉnh Yên Bái; có mặt.
2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện VY, tỉnh Yên Bái
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Trung K - Chức vụ: Phó Chủ
tịch (theo giấy ủy quyền ngày 13/11/2024); vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử
vắng mặt.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
+ Ủy ban nhân dân xã CQH, huyện VY, tỉnh Yên Bái.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Cao Thanh H - Cán bộ địa chính xã
(theo giấy ủy quyền ngày 09/01/2025); vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
+ Ông Nguyễn Văn A
Địa chỉ: Thôn HL, xã CQH, huyện VY, tỉnh Yên Bái; có mặt.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH YÊN BÁI
Bản án số: 01/2025/HC-ST
Ngày: 27-3-2025
V/v khiếu kiện Quyết định hành
chính trong lĩnh vực quản lý đất đai.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
+ Ông Nguyễn Văn L và bà Phạm Thị H;
Cùng địa chỉ: Khu HĐ, thị trấn ĐP, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước; vắng
mặt, có đề nghị vắng mặt.
+ Anh Đỗ Chí C
Địa chỉ: Thôn KP, xã CQH, huyện VY, tỉnh Yên Bái; vắng mặt, có đề
nghị xét xử vắng mặt.
+ Anh Đỗ Đức D
Địa chỉ: Thôn HL, xã CQH, huyện VY, tỉnh Yên Bái; vắng mặt, có đề
nghị xét xử vắng mặt.
+ Chị Đỗ Thị Bích H1
Địa chỉ: Thôn HL, xã CQH, huyện VY, tỉnh Yên Bái; vắng mặt, có đề
nghị xét xử vắng mặt.
+ Anh Nguyễn Văn T1
Địa chỉ: Thôn HL, xã CQH, huyện VY, tỉnh Yên Bái; vắng mặt, có đề
nghị xét xử vắng mặt.
+ Chị Nguyễn Thị H2
Địa chỉ: Thôn ĐT, xã ĐM, huyện YB, tỉnh Yên Bái; vắng mặt, có đề
nghị xét xử vắng mặt.
+ Chị Nguyễn Thị Mỹ D1
Địa chỉ: Số nhà 423A, tổ 20, phường KT, thành phố LC, tỉnh Lào Cai;
vắng mặt, có đề nghị xét xử vắng mặt.
+ Bà Nguyễn Thị N
Địa chỉ: Thôn AK, xã ĐA, huyện VY, tỉnh Yên Bái; vắng mặt, có đề
nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ
sơ của người khởi kiện thể hiện:
Từ năm 2004, gia đình bà Nguyễn Thị T (trực tiếp là ông Đỗ Văn B) đã
04 lần mua đất của ông Nguyễn Văn L và bà Phạm Thị H, tổng diện tích thửa
đất (sau 04 lần mua) là khoảng 389,5m
2
(chiều rộng mặt đường Yên Bái - Khe
Sang là 10,5m, chiều dài khoảng 40m), nằm trong tổng diện tích đất 924m
2
mà ông L, bà H đã được Uỷ ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) huyện
VY, tỉnh Yên Bái cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây viết tắt là
GCNQSDĐ) ngày 16/6/2004, tại địa chỉ Thôn HL, xã CQH, huyện VY, tỉnh
Yên Bái. Các lần mua bán hai bên đều viết giấy viết tay, có xác nhận của
3
người làm chứng và chính quyền địa phương xã CQH, huyện VY, tỉnh Yên
Bái.
Sau khi mua đất của ông L và bà H vì điều kiện gia đình kinh tế khó
khăn, nên gia đình bà T chưa làm thủ tục tách thửa diện tích đất đã mua, sang
tên chuyển nhượng và đăng ký cấp GCNQSDĐ tại Cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền, nhưng có thực hiện kê khai và nộp thuế đất nhà ở (có biên lai thu
phí ngày 09/7/2004). Quá trình gia đình bà T sử dụng đất ổn định, liên tục,
không phát sinh tranh chấp.
Năm 2009, ông Nguyễn Văn A và vợ là bà Dương Thị E mua của ông
Nguyễn Văn L và bà Phạm Thị H 01 thửa đất vườn tạp, giáp với phần đất gia
đình bà T đã mua trước đó. Khi ông L và ông A mua bán với nhau thì có gọi
gia đình bà T ra để cùng xác định ranh giới, mốc giới. Sau khi các bên xác
định rõ ranh giới, mốc giới cụ thể (năm 2009) thì gia đình bà T và gia đình
ông A cùng nhau xây tường bao phân định ranh giới giữa hai nhà và sử dụng
ổn định từ đó đến nay, không có tranh chấp.
Cùng năm 2009, ông L và bà H sau khi bán đất cho ông A và bà E xong
thì chuyển vào Miền Nam sinh sống, trước khi đi ông L bàn giao lại toàn bộ
GCNQSDĐ cho ông A cầm, để gia đình bà T và ông A cùng phối hợp làm thủ
tục tách GCNQSDĐ. Nhưng sau đó, bà T đã nhiều lần gặp và đề nghị ông A
đưa GCNQSDĐ của nhà ông L và bà H để bà T làm thủ tục tách thửa nhưng
ông A không hợp tác.
Năm 2011, gia đình bà T xây nhà và ở ổn định trên phần diện tích đất
đã mua của ông L, bà H không có tranh chấp gì. Do chờ đợi lâu không tách
thửa đất nên tháng 12/2022 Ban địa chính xã CQH có chủ trương cấp
GCNQSDĐ cho các hộ dân, bà T đến xã kê khai thì được Ban địa chính xã trả
lời là đất của gia đình bà T đang sử dụng đã được UBND huyện VY, tỉnh Yên
Bái cấp toàn bộ cho ông Nguyễn Văn A và bà Dương Thị E, theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
số CH 00599 ngày 22/10/2013.
Việc UBND huyện VY, tỉnh Yên Bái lập hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho
ông Nguyễn Văn A, bà Dương Thị E không đảm bảo theo đúng trình tự, thủ
tục quy định của pháp luật, cụ thể: Không xác minh, không kiểm tra đo đạc,
không thể hiện đúng hiện trạng sử dụng đất, cấp chồng lên diện tích đất có
xây dựng công trình kiên cố trên đất mà gia đình bà T đang sử dụng ổn định,
ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bà T.
Vì vậy, bà Nguyễn Thị T đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái hủy
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất số CH 00599 ngày 22/10/2013, do UBND huyện VY, tỉnh Yên Bái
cấp cho ông Nguyễn Văn A và bà Dương Thị E đối với thửa đất số 01, tổng
4
diện tích 924m
2
(trong đó diện tích đất ở là 150m
2
; đất trồng cây hàng năm
khác là 774m
2
), tại địa chỉ Thôn HL, xã CQH, huyện VY, tỉnh Yên Bái.
Tại văn bản trình bày ý kiến và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ
sơ, người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện UBND huyện VY, tỉnh
Yên Bái thể hiện:
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất số CH 00599 ngày 22/10/2013 được cấp dựa trên Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn L, bà Phạm Thị H
với ông Nguyễn Văn A, bà Dương Thị E, được UBND xã CQH chứng thực
ngày 20/7/2013; thửa đất của ông Nguyễn Văn L và bà Phạm Thị H trước đó
đã được UBND huyện VY cấp GCNQSDĐ số vào sổ 01858/QSDĐ/QĐUBH
ngày 16/6/2004. Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH
00599 ngày 22/10/2013 được UBND huyện VY, tỉnh Yên Bái thực hiện đảm
bảo theo đúng quy định pháp luật. Yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện là
không có căn cứ. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
Tại văn bản trình bày ý kiến và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND xã CQH, huyện VY, tỉnh
Yên Bái thể hiện:
Liên quan đến hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH 00599 ngày 22/10/2013
được UBND huyện VY cấp cho ông Nguyễn Văn A, bà Dương Thị E, hiện
nay tại UBND xã có thông tin về giấy chứng nhận trên tại sổ địa chính xã
năm 2014, trang số 80. Ngoài ra, UBND xã có lưu tại sổ địa chính trang số
144 và sơ đồ đo trích thửa đất theo GCNQSDĐ đã cấp cho hộ ông Nguyễn
Văn L và bà Phạm Thị H năm 2000.
Việc UBND huyện VY, tỉnh Yên Bái lập hồ sơ cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH
00599 ngày 22/10/2013, cấp cho ông Nguyễn Văn A và bà Dương Thị E đối
với thửa đất số 01, tổng diện tích 924m
2
(trong đó diện tích đất ở là 150m
2
;
đất trồng cây hàng năm khác là 774m
2
), tại địa chỉ Thôn HL, xã CQH, huyện
VY, tỉnh Yên Bái là không thể hiện đúng hiện trạng sử dụng đất, cấp chồng
vào diện tích đất mà gia đình bà T đang sử dụng ổn định. Vì vậy, trên cơ sở
xác minh nguồn gốc sử dụng đất, quá trình quản lý, sử dụng đất của các hộ
gia đình, cá nhân; UBND xã CQH, huyện VY đề nghị hủy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH
00599 ngày 22/10/2013 do UBND huyện VY cấp cho ông Nguyễn Văn A và
bà Dương Thị E.
5
Tại bản tự khai và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn A thể hiện:
Theo giấy viết tay nhượng giao thổ cư ngày 22/11/2009, gia đình ông
Nguyễn Văn A mua của gia đình ông Nguyễn Văn L, vợ là bà Phạm Thị H 01
thửa đất tại địa chỉ Thôn HL, xã CQH, huyện VY, tỉnh Yên Bái, tổng diện
tích 428m
2
(chiều rộng mặt đường Yên Bái - Khe Sang là 10m; chiều dài
42,8m) gồm: 150m
2
đất thổ cư và 278m
2
đất vườn tạp; có tứ cận: Phía Tây
giáp hàng lang đường Yên Bái - Khe Sang, chiều dài 10m; phía Bắc giáp đất
ông bà T Trạm, chiều dài 42,8m; phía Đông giáp đất nhà ông Phạm Xuân X
(nay là bà Vũ Thị P), chiều dài 10m; phía Nam giáp đất bà Nguyễn Thị O
(nay là bà Vũ Thị P), chiều dài 42,8m. Khi mua trên đất gồm: 01 căn nhà 03
gian lợp Proximang, hai gian nhà bếp lợp Proximang, một nhà vệ sinh, một
chuồng gà. Sau khi nhận chuyển nhượng, gia đình ông A chuyển về sinh sống
ổn định, cùng ông bà T Trạm xác định ranh giới, mốc giới cụ thể, cùng nhau
xây dựng tường bao làm ranh giới giữa hai nhà; quá trình sử dụng đất gia đình
ông A và gia đình bà T sử dụng ổn định, ranh giới rõ ràng, không phát sinh
tranh chấp. Đến năm 2015, ông A dỡ bỏ ngôi nhà, đổ đất cao hơn mặt đường
và không ở tại thửa đất đó nữa. Hiện nay trên đất không có công trình, vật
kiến trúc.
Khi chuyển nhượng đất, ông Nguyễn Văn L, bà Phạm Thị H có bàn giao
GCNQSDĐ cho ông A, để ông A làm thủ tục sang tên. Sau đó, năm 2010 ông
A mang giấy nhượng giao thổ cư (giấy viết tay) và GCNQSDĐ của ông L, bà
H đến địa chính xã CQH đăng ký làm thủ tục chuyển nhượng để cấp
GCNQSDĐ. Đến ngày 22/10/2013, ông Nguyễn Văn A và bà Dương Thị E
được UBND huyện VY, tỉnh Yên Bái cấp GCNQSDĐ số CH00599 đối với
thửa đất số 01, tổng diện tích 924m
2
(trong đó diện tích đất ở là 150m
2
; đất
trồng cây hàng năm khác là 774m
2
), tại địa chỉ Thôn HL, xã CQH, huyện VY,
tỉnh Yên Bái.
Quá trình cấp GCNQSDĐ, ông A không thấy có cán bộ tiến hành đo
đạc, kiểm tra thực địa, xác định ranh giới, mốc giới thửa đất, không có mặt
các hộ giáp ranh và trưởng thôn.
Việc UBND huyện VY, tỉnh Yên Bái cấp GCNQSDĐ số CH00599 cho
gia đình ông A là chưa phù hợp với hiện trạng diện tích đất đang sử dụng thực
tế. Đề nghị UBND huyện VY cấp lại GCNQSDĐ cho gia đình ông A và gia
đình bà T theo đúng hiện trạng sử dụng. Ông Nguyễn Văn A đề nghị Tòa án
nhân dân tỉnh Yên Bái giải quyết vụ án theo đúng quy định pháp luật. Ngoài
ra, không có yêu cầu đề nghị gì khác.
Tại các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan ông Nguyễn Văn L, bà Phạm Thị H thể hiện:
6
Ngày 16/6/2004, hộ ông Nguyễn Văn L được UBND huyện VY cấp
GCNQSDĐ số vào sổ 01858/QSDĐ/QĐUBH đối với diện tích 924m
2
(trong
đó: thửa số 01, diện tích đất ở là 150m
2
; thửa số 02, diện tích đất vườn là
774m
2
), tại địa chỉ Thôn HL, xã CQH, huyện VY, tỉnh Yên Bái.
Ông L, bà H xác định: Năm 2004, có bán cho ông Đỗ Văn B 01 diện
tích đất vườn tạp, chiều rộng 06m, diều dài 30m, hai bên có viết giấy viết tay
có anh trai ông L là ông Nguyễn Văn Y làm chứng, ông L đã nhận đủ tiền và
giao đất cho ông B quản lý, sử dụng. Sau đó năm 2006 và 2007, ông L tiếp
tục bán đất vườn tạp cho ông B hai, ba lần nhưng chỉ nói miệng, không viết
giấy tờ; ông L không nhớ diện tích cụ thể, chỉ nhớ 01 thửa có chiều rộng mặt
đường Yên Bái - Khe Sang là 2,5m; 01 thửa là phần diện tích phía đuôi liền
kề, tiếp giáp với thửa đất ông B đã mua năm 2004. Ông L xác định, toàn bộ
diện tích bán cho ông B nhiều lần là đất vườn tạp nằm trong tổng diện tích đất
924m
2
mà ông L đã được cấp GCNQSDĐ trước đó, ông L không nhớ tổng
diện tích đã bán cho ông B là bao nhiêu, nhưng từ khi mua bán các bên đã xác
định ranh giới đất, cắm mốc giới cụ thể, sử dụng ổn định và không có tranh
chấp.
Năm 2009, ông L bán cho ông Nguyễn Văn A, vợ là Dương Thị E 01
thửa đất tại địa chỉ Thôn HL, xã CQH, huyện VY, tỉnh Yên Bái (chiều rộng
mặt đường Yên Bái - Khe Sang là 10m; chiều dài 42m), theo giấy viết tay
nhượng giao thổ cư ngày 22/11/2009, giáp với phần đất ông B, bà T đã mua
trước đó. Khi đó, ông A và bà T đều thống nhất xác định ranh giới, mốc giới
cụ thể, cùng nhau xây dựng tường bao làm ranh giới giữa hai nhà, không
tranh chấp.
Thời điểm bán đất cho ông A, ông L đã bàn giao GCNQSDĐ của ông
L cho ông A, để ông A tự làm thủ tục sang tên, do công việc gia đình ông L
chuyển vào Miền Nam sinh sống.
Ông L xác định khi bán đất cho ông B và ông A, các bên đều thống
nhất xác định ranh giới, mốc giới cụ thể, rõ ràng, không tranh chấp. Đối với
yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện, đề nghị hủy Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH 00599
ngày 22/10/2013, do UBND huyện VY, tỉnh Yên Bái cấp cho ông Nguyễn
Văn A và bà Dương Thị E đối với thửa đất số 01, tổng diện tích 924m
2
(trong
đó diện tích đất ở là 150m
2
; đất trồng cây hàng năm khác là 774m
2
), tại địa
chỉ Thôn HL, xã CQH, huyện VY, tỉnh Yên Bái, đề nghị Tòa án giải quyết
theo pháp luật. Ông L, bà H xác định không có quyền lợi, nghĩa vụ gì và
không L quan gì nữa; việc tranh chấp giữa bà T và ông A tự giải quyết với
nhau, ngoài ra không có yêu cầu, đề nghị gì khác.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (anh Đỗ Chí C, anh Đỗ
Đức D, chị Đỗ Thị Bích H1, anh Nguyễn Văn T1, chị Nguyễn Thị H2, chị
7
Nguyễn Thị Mỹ D1, bà Nguyễn Thị N) đều có đơn đề nghị xác định không L
quan đến việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên, không có yêu
cầu, đề nghị gì về việc giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
Người khởi kiện giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật
trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm:
- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử sơ thẩm,
các đương sự từ khi thụ lý vụ án sơ thẩm đến trước khi HĐXX nghị án đã
thực hiện đúng quy định của pháp luật.
- Về nội dung: Căn cứ các Điều 3, 30, 32, 158, điểm b khoản 2 Điều
193, Điều 194 và Điều 348 của Luật Tố tụng hành chính; Điều 157 của Bộ
luật Tố tụng dân sự; Điều 152 của Luật Đất đai năm 2024; khoản 2 Điều 32
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án.
Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà
Nguyễn Thị T. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất số CH 00599 ngày 22/10/2013, do Uỷ ban
nhân dân huyện VY, tỉnh Yên Bái cấp cho ông Nguyễn Văn A và bà Dương
Thị E đối với thửa đất số 01, tổng diện tích 924m
2
(trong đó diện tích đất ở là
150m
2
; đất trồng cây hàng năm khác là 774m
2
), tại địa chỉ Thôn HL, xã CQH,
huyện VY, tỉnh Yên Bái. Đề nghị giải quyết chi phí tố tụng và án phí theo quy
định của pháp luật.
Toà án đã tiến hành tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và tiến hành mở phiên đối thoại nhưng các đương sự
không đối thoại được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án,
người khởi kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, người bị kiện vẫn giữ
nguyên quyết định hành chính bị khởi kiện. Vì vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Yên
Bái mở phiên tòa sơ thẩm xét xử công khai vụ án hành chính để Hội đồng xét
xử xem xét quyết định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát
viên, HĐXX nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện hợp pháp của người bị kiện, một
số người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng có đơn đề nghị giải

8
quyết vắng mặt, căn cứ Điều 158 của Luật Tố tụng hành chính, Tòa án giải
quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
[1.2] Về đối tượng khởi kiện và thẩm quyền giải quyết: Người khởi
kiện bà Nguyễn Thị T (có chồng là ông Đỗ Văn B đã chết) khởi kiện yêu cầu
hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất số CH 00599 ngày 22/10/2013, do UBND huyện VY, tỉnh
Yên Bái cấp cho ông Nguyễn Văn A và bà Dương Thị E (bà E chết ngày
07/8/2014). Đây là Quyết định hành chính có nội dung liên quan đến quyền
và lợi ích của bà T, nên theo khoản 1 và khoản 2 Điều 3; Điều 30; Điều 32
của Luật Tố tụng hành chính thì GCNQSDĐ là đối tượng khởi kiện vụ án
hành chính và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái.
Đồng thời Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái xác định UBND huyện VY là người
bị kiện; ông Nguyễn Văn A, ông Nguyễn Văn L, bà Phạm Thị H, những
người trong hàng thừa kế thứ nhất của ông Đỗ Văn B (gồm: Anh Đỗ Chí C,
anh Đỗ Đức D, chị Đỗ Thị Bích H1), những người trong hàng thừa kế thứ
nhất của bà Dương Thị E (gồm: Anh Nguyễn Văn T1, chị Nguyễn Thị H2, chị
Nguyễn Thị Mỹ D1, bà Nguyễn Thị N) là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T:
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất số CH 00599 ngày 22/10/2013 của Uỷ ban nhân dân huyện
VY, tỉnh Yên Bái cấp cho ông Nguyễn Văn A và bà Dương Thị E đối với
thửa đất số 01, tổng diện tích 924m
2
(trong đó diện tích đất ở là 150m
2
; đất
trồng cây hàng năm khác là 774m
2
), là không đúng với diện tích, ranh giới
thực tế ông A đang quản lý, sử dụng được xác định theo Biên bản xem xét
thẩm định tại chỗ ngày 25/02/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái xác
định diện tích đất ông A đang quản lý sử dụng là 524,2m
2
(trong đó: 436,4m
2
có nguồn gốc mua của ông L, bà H năm 2009; 87,8m
2
có nguồn gốc mua của
bà Vũ Thị P năm 2010);
Đồng thời kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ do Toà án tiến hành ngày
25/02/2025 đã xác định diện tích đất bà T đang quản lý sử dụng là 416m
2
nằm
trong GCNQSDĐ số CH 00599 mà UBND huyện VY đã cấp cho ông Nguyễn
Văn A, bà Dương Thị E.
Giữa đất của ông Nguyễn Văn A và đất của bà Nguyễn Thị T đang sử
dụng có ranh giới rõ ràng, có tường xây, các bên sử dụng, ổn định, không có
tranh chấp và các bên cũng không có tranh chấp về các hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất với ông Nguyễn Văn L và bà Phạm Thị H.
Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Uỷ ban nhân dân huyện VY, tỉnh Yên
Bái đã cấp GCNQSDĐ số CH 00599 ngày 22/10/2013 cho ông Nguyễn Văn
9
A, bà Dương Thị E chồng lấn lên diện tích đất của bà Nguyễn Thị T, giữa các
bên không có tranh chấp. Quá trình thực hiện thủ tục cấp GCNQSDĐ cho ông
A, bà E, các cơ quan có thẩm quyền không kiểm tra, đo đạc thực địa, không
yêu cầu ký giáp ranh là không tuân thủ đúng quy định về trình tự, thủ tục theo
quy định của pháp luật đất đai nên không đúng với hiện trạng sử dụng đất của
ông A, bà E. Giữa các đương sự không có tranh chấp và đều thừa nhận việc
Uỷ ban nhân dân huyện VY cấp GCNQSDĐ cho ông A, bà E là có sai sót về
diện tích, sai sót về ranh giới, cấp chồng lấn lên diện tích đất của bà T.
Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ chấp nhận đề nghị của Đại
diện Viện kiểm sát tại phiên toà và chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà
Nguyễn Thị T về việc hủy GCNQSDĐ số CH 00599 ngày 22/10/2013, do
UBND huyện VY, tỉnh Yên Bái cấp cho ông Nguyễn Văn A và bà Dương Thị
E .
[3] Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu của người khởi kiện của bà Nguyễn
Thị T được Tòa án chấp nhận nên người bị kiện là UBND huyện VY, tỉnh
Yên Bái phải chịu toàn bộ chi xem xét thẩm định tại chỗ ngày 25/02/2025 là
8.055.000 đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 157 của Bộ luật Tố tụng dân
sự. UBND huyện VY, tỉnh Yên Bái phải hoàn trả cho bà Nguyễn Thị T số
tiền 8.055.000 đồng.
[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện được chấp
nhận nên bà Nguyễn Thị T không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm; người
bị kiện phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.
[5] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ các Điều 3, 30, 32, 158, điểm b khoản 2 Điều 193, Điều 194,
Điều 204, Điều 206 và Điều 348 của Luật Tố tụng hành chính;
- Căn cứ Điều 157 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 152 của Luật Đất đai năm 2024;
- Căn cứ khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T. Hủy
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất số CH 00599 ngày 22/10/2013 của Uỷ ban nhân dân huyện VY,
tỉnh Yên Bái cấp cho ông Nguyễn Văn A và bà Dương Thị E đối với thửa đất
số 01, tổng diện tích 924m
2
(trong đó diện tích đất ở là 150m
2
; đất trồng cây
10
hàng năm khác là 774m
2
), tại địa chỉ Thôn HL, xã CQH, huyện VY, tỉnh Yên
Bái.
2. Về chi phí tố tụng: Người bị kiện là Uỷ ban nhân dân huyện VY, tỉnh
Yên Bái phải chịu toàn bộ chi xem xét thẩm định tại chỗ là 8.055.000 đồng
(tám triệu không trăm năm mươi lăm nghìn đồng). Uỷ ban nhân dân huyện VY,
tỉnh Yên Bái phải hoàn trả cho bà Nguyễn Thị T số tiền 8.055.000 đồng (tám
triệu không trăm năm mươi lăm nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468
của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Về án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị T không phải chịu án phí hành
chính sơ thẩm, được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại
Biên lai số: AA/2023/0000093 ngày 05/11/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Yên Bái.
Uỷ ban nhân dân huyện VY, tỉnh Yên Bái phải chịu 300.000 đồng án
phí hành chính sơ thẩm. Uỷ ban nhân dân huyện VY, tỉnh Yên Bái chưa nộp
án phí hành chính sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền
kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự
(người đại diện của đương sự) vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo
bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc
kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại HN;
- VKSND cấp cao tại HN;
- VKSND tỉnh Yên Bái;
- Cục THADS tỉnh Yên Bái;
- Các đương sự (người đại diện);
- Lưu: HCTP, Hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Thị Vân
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 20/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 20/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 19/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm