Quyết định số 79/2024/QĐST-HNGĐ ngày 26/08/2024 của TAND TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh về tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc hủy kết hôn trái pháp luật
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Quyết định số 79/2024/QĐST-HNGĐ
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Quyết định số 79/2024/QĐST-HNGĐ
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Quyết định 79/2024/QĐST-HNGĐ
Tên Quyết định: | Quyết định số 79/2024/QĐST-HNGĐ ngày 26/08/2024 của TAND TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh về tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc hủy kết hôn trái pháp luật |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc hủy kết hôn trái pháp luật |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Hạ Long (TAND tỉnh Quảng Ninh) |
Số hiệu: | 79/2024/QĐST-HNGĐ |
Loại văn bản: | Quyết định |
Ngày ban hành: | 26/08/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không công nhận vợ chồng giữa chị Mai Thuyết N và anh Vũ Huy L |
Tóm tắt Quyết định
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ H
TỈNH QUẢNG NINH
Bản án số: 95/2024/HNGĐ-ST
Ngày 18 - 9 - 2024
“V/v ly hôn, tranh chấp về nuôi con
khi ly hôn”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH QUẢNG NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thu Hương
Hội thẩm nhân dân: Bà Hồ Thị Lan
Bà Lê Thu Thúy
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Minh Thương – Thư ký Tòa án nhân dân
thành phố H, tỉnh Quảng Ninh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Quảng Ninh tham
gia phiên toà: Bà Đoàn Thu Trang - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 9 năm 2024 tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố H,
xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 136/2024/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng
6 năm 2024 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số 197/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 9 năm 2024
giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: chị Diệp Thị H, sinh năm 1980
Địa chỉ: tổ 6, khu 4, phường Y, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh
Vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
2. Bị đơn: anh Nguyễn Văn H2, sinh năm 1973
Địa chỉ: tổ 6, khu 4, phường Y, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh
Vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện ly hôn và bản tự khai, nguyên đơn chị Diệp Thị H
trình bày:
Chị và anh Nguyễn Văn H2 đăng ký kết hôn ngày 22/12/2006 tại Ủy ban
nhân dân phường Cao Thắng, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở tự nguyện.
Quá trình chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên
nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung dẫn
đến thường xuyên xảy ra xung khắc, bất hòa, cuộc sống không hạnh phúc. Do tính
chất công việc làm lái tàu trên biển nên anh H2 thường xuyên vắng nhà, không
chăm lo cho gia đình, vợ con. Mặc dù anh chị đã tìm cách khắc phục và được gia
2
đình hòa giải nhưng không có kết quả. Từ năm 2021 đến nay chị và anh H2 sống
ly thân, không ai quan tâm đến ai.
Nay chị nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng
không còn, cuộc sống chung đã không tồn tại từ lâu nên chị H đề nghị Tòa án giải
quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn H2.
Về con chung: quá trình chung sống chị và anh Nguyễn Văn H2 có 02 con
chung là Nguyễn Khánh L, sinh ngày 27/5/2007 và Nguyễn Duy M, sinh ngày
03/11/2011. Chị H đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung đến khi
thành nhiên và không yêu cầu anh H2 cấp dưỡng nuôi các con chung.
Về tài sản chung: chị và anh Nguyễn Văn H2 không có tài sản chung nên
không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: chị và anh Nguyễn Văn H2 không có nợ chung với cơ quan,
tổ chức cũng như cá nhân nào nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn H2 vắng mặt tại phiên tòa tuy nhiên trong
quá trình chuẩn bị xét xử, anh H2 đã có bản tự khai thể hiện quan điểm:
Anh H2 xác nhận về điều kiện, hoàn cảnh kết hôn, nguyên nhân vợ chồng
phát sinh mâu thuẫn như chị H đã trình bày là đúng. Đối với yêu cầu khởi kiện
của chị H về việc ly hôn, anh H2 cũng đồng ý và đề nghị Tòa án giải quyết cho
anh được ly hôn chị H.
Về con chung: Anh và chị H có 02 con chung là Nguyễn Khánh L, sinh
ngày 27/5/2007 và Nguyễn Duy M, sinh ngày 03/11/2011. Khi ly hôn anh đồng ý
để chị H trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung đến khi thành nhiên, anh H2 không
phải cấp dưỡng nuôi các con chung.
Về tài sản chung: anh và chị Diệp Thị H không có tài sản chung nên không
yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: anh và chị Diệp Thị H không có nợ chung với cơ quan, tổ
chức cũng như cá nhân nào nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Do điều kiện công việc, anh H2 không thể đến Tòa án để giải quyết việc ly
hôn với chị H nên anh đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Vì vậy, Tòa án
tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Văn H2 theo quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự.
Ngày 29/8/2024 Tòa án đã tiến hành xác minh tại tổ 6, khu 4, phường Y,
thành phố H, tỉnh Quảng Ninh và được khu trưởng cung cấp thông tin: Quá trình
chung sống chị H và anh H2 có xảy ra mâu thuẫn tuy nhiên nguyên nhân mâu
thuẫn là gì thì tổ dân, khu phố không nắm được do anh chị không trình báo. Hiện
tại chị H và anh H2 đang sống ly thân.
Tòa án cũng đã tiến hành hỏi ý kiến của cháu Nguyễn Khánh L và cháu
Nguyễn Duy M là con chung của chị H và anh H2 thì nếu bố mẹ ly hôn, cháu L
và cháu M đều có nguyện vọng muốn được ở cùng với mẹ.
3
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát có quan điểm việc tuân theo pháp luật
tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, cũng như việc chấp hành pháp luật
của nguyên đơn, bị đơn đã được thực hiện đầy đủ, đúng theo quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia
đình; đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị
Diệp Thị H; chị Diệp Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn H2.
Về con chung: Giao cho chị Diệp Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo
dục và nuôi dưỡng con chung Nguyễn Khánh L, sinh ngày 27/5/2007 và Nguyễn
Duy M, sinh ngày 03/11/2011 đến tuổi thành niên. Anh Nguyễn Văn H2 không
phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền thăm nom con chung không ai được
cản trở.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Nguyên đơn – chị Diệp Thị H khởi kiện về việc ly hôn đối với bị đơn – anh
Nguyễn Văn H2 có nơi cư trú tại tổ 6, khu 4, phường Y, thành phố H do đó vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố H theo quy định tại
khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật
Tố tụng dân sự nên việc Tòa án nhân dân thành phố H thụ lý, giải quyết yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn là đúng quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn, bị đơn đã được thực hiện quyền,
nghĩa vụ, được nhận, thực hiện các thủ tục tố tụng và không có ý kiến gì khác. Cả
nguyên đơn và bị đơn đều đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy, việc xét
xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn không ảnh hưởng đến tính khách quan khi giải
quyết vụ án, đúng quy định tại Điều 227, Điều 228 và các quy định khác có liên
quan của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Như vậy về thẩm quyền giải quyết vụ án và trình tự tố tụng, được đảm bảo
và đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân:
Chị Diệp Thị H và anh Nguyễn Văn H2 kết hôn với nhau là hoàn toàn tự
do, tự nguyện tìm hiểu, không bị ai ép buộc, có đăng ký kết hôn ngày 22/12/2006
tại Ủy ban nhân dân phường Giếng Đáy, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh, do đó
quan hệ hôn nhân của chị H và anh H2 là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp
luật công nhận và bảo vệ.
Xét yêu cầu giải quyết ly hôn của chị Diệp Thị H thì thấy:
Mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh H2 đã phát sinh từ
lâu, nguyên nhân là do cuộc sống không hợp nhau, luôn bất đồng quan điểm sống.
Khi vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, anh chị cũng đã tìm cách khắc phục và được gia
đình hai bên hòa giải nhưng không có kết quả mà mâu thuẫn ngày càng trầm trọng
4
hơn. Từ năm 2021 đến nay chị H và anh H2 sống ly thân với nhau, không quan
tâm đến cuộc sống của nhau. Đến nay chị H thừa nhận tình cảm vợ chồng thực sự
không còn, cuộc sống chung không tồn tại từ lâu, nên chị H yêu cầu Tòa án giải
quyết cho chị được ly hôn với anh H2
Đối với bị đơn – anh Nguyễn Văn H2 cũng đồng ý với yêu cầu ly hôn của
chị H và từ chối việc Tòa án hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ.
Quá trình giải quyết vụ án Tòa án cũng đã xác minh tại tổ dân nơi chị H và
anh H2 chung sống trước khi ly thân và tổ dân cũng đã xác nhận việc chị H và
anh H2 có xảy ra mâu thuẫn cũng như việc anh chị đang sống ly thân.
Căn cứ vào quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, thì tình trạng
hôn nhân giữa chị H và anh H2 là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài,
mục đích của hôn nhân không đạt được, yêu cầu ly hôn anh H2 của chị H là có
căn cứ nên chấp nhận.
[3] Về con chung:
Quá trình chung sống chị Diệp Thị H và anh Nguyễn Văn H2 có 02 con
chung là Nguyễn Khánh L, sinh ngày 27/5/2007 và Nguyễn Duy M, sinh ngày
03/11/2011. Chị H đề nghị được nuôi dưỡng cả hai con chung đến khi thành niên
và không yêu cầu anh H2 phải cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu này của chị H thì
thấy: từ khi chị H và anh H2 sống ly thân, chị H là người trực tiếp nuôi dưỡng,
chăm sóc cả hai con chung. Hơn nữa chị Hườn có đầy đủ điều kiện để chăm sóc,
nuôi dưỡng con chung. Anh H2 cũng đồng ý để chị H nuôi dưỡng con chung khi
ly hôn do điều kiện công việc của anh thường xuyên vắng nhà nên không thể đảm
bảo chăm sóc, nuôi dưỡng các con. Cháu Nguyễn Khánh L và Nguyễn Duy M
đều có nguyện vọng nếu bố mẹ ly hôn thì các cháu có muốn được ở cùng với mẹ.
Do đó việc giao con chung cho chị H nuôi dưỡng sẽ đảm bảo sự chăm sóc, phát
triển của con chung. Căn cứ theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình,
thì yêu cầu của chị H là có căn cứ để xem xét chấp nhận.
[4] Về tài sản chung:
Chị Diệp Thị H và anh Nguyễn Văn H2 không có tài sản chung nên Hội
đồng xét xử không đề cập.
[5] Về nợ chung:
Chị Diệp Thị H và anh Nguyễn Văn H2 xác nhận vợ chồng không có nợ
chung với cơ quan, tổ chức cũng như cá nhân nào nên Hội đồng xét xử không đề
cập.
[6] Về án phí: chị Diệp Thị H phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy
định của pháp luật.
[7] Đối với đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ pháp luật,
phù hợp với nhận định của Tòa án.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
5
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản
1 Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Diệp Thị H; chị Diệp Thị
H được ly hôn anh Nguyễn Văn H2.
Về con chung: Chị Diệp Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và
nuôi dưỡng con chung Nguyễn Khánh L, sinh ngày 27/5/2007 và Nguyễn Duy M,
sinh ngày 03/11/2011 đến tuổi thành niên. Anh Nguyễn Văn H2 không phải cấp
dưỡng nuôi con chung và có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.
Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở
người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục con.
Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc
gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì
người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con
của người đó.
Về tài sản chung và nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về án phí chị Diệp Thị H phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm,
được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp ngày 03/4/2024 theo biên lai thu tiền
tạm ứng án phí số 0000859 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H. Chị H
đã nộp đủ án phí.
Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt nguyên đơn và bị đơn. Báo cho nguyên
đơn và bị đơn biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND TP H;
- TAND tỉnh Quảng Ninh;
- VKSND tỉnh Quảng Ninh;
- Chi cục THADS TP H;
- UBND phường C, TP H;
- Lưu hồ sơ vụ án.
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
(đã ký)
Nguyễn Thu Hương
Tải về
Quyết định số 79/2024/QĐST-HNGĐ
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quyết định số 79/2024/QĐST-HNGĐ
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 15/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 07/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 06/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 30/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 26/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 23/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 21/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 09/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 09/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 07/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 31/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 25/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 18/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 31/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm