Bản án số 97/2025/HS-ST ngày 22/01/2025 của TAND huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình về phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 97/2025/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 97/2025/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 97/2025/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 97/2025/HS-ST ngày 22/01/2025 của TAND huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình về phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ |
---|---|
Tội danh: | 260.Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Kiến Xương (TAND tỉnh Thái Bình) |
Số hiệu: | 97/2025/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 22/01/2025 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | HS Nguyễn Trọng Ninh |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN KIẾN XƢƠNG
TỈNH THÁI BÌNH
Bản án số: 97/2024/HS - ST
Ngày: 27 - 11- 2024
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƢƠNG, TỈNH THÁI BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Lê Thị Thanh Xuân
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Đoàn Thị Duyên
2. Ông Nguyễn Tùng Lâm
- Thư ký phiên toà: Bà Vũ Thị Khánh Ly - Thƣ ký Toà án nhân dân
huyện Kiến Xƣơng, tỉnh Thái Bình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình
tham gia phiên tòa: Bà Trần Thị Thìn - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kiến Xƣơng,
tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 95/2024/HSST
ngày 25/10/2024 theo Quyết định đƣa vụ án ra xét xử số: 97/2024/HSST-QĐ ngày
12/11/2024 đối với:
1. Bị cáo Nguyễn Trọng N sinh ngày 02/02/1980 tại tỉnh Hƣng Yên;
Nơi cƣ trú: Tổ dân phố L, phƣờng N, thị xã M, tỉnh Hƣng Yên; Nghề nghiệp:
Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;
Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trọng Đ và bà Khúc Thị P; Vợ: chị
Đào Thị S, có 02 con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2004;
Tiền án, tiền sự: không;
Nhân thân: Bị xử phạt vi phạm hành chính số tiền 150.000đồng về hành vi “
Trộm cắp tài sản” theo Quyết định số 152/QĐXPVPHC ngày 23/12/2003 của Công
an huyện Mỹ Hào tỉnh Hƣng Yên. Chấp hành xong ngày 31/12/2003.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cƣ trú, có mặt.

2
2. Bị hại: Bà Mai Thị G, sinh năm 1950 (đã tử vong ngày 08/7/2024 do tai
nạn giao thông)
Nơi cƣ trú: thôn P, xã B, huyện K, tỉnh Thái Bình.
Người đại diện hợp pháp của bị hại Mai Thị G:
- Ông Nguyễn Đức H, sinh năm 1946 (là chồng bà G)
Nơi cƣ trú: thôn P, xã B, huyện K, tỉnh Thái Bình
- Anh Nguyễn Đức H sinh năm 1970 (là con trai bà G)
Nơi cƣ trú: 312 Lô B4 CC 644 ha TML, Thạnh Mỹ L, TP T, thành phố Hồ Chí Minh.
- Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1972 (là con G bà G)
Nơi cƣ trú: tổ dân phố T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Thái Bình.
- Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1976 (là con trai bà G)
Nơi cƣ trú: thôn P, xã B, huyện K, tỉnh Thái Bình
- Anh Nguyễn Viết C, sinh năm 1980 (là con trai bà G)
Nơi cƣ trú: thôn P, xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình
Người được người đại diện hợp pháp của bị hại ủy quyền:
- Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1976 (là con trai bà G); vắng mặt
Nơi cƣ trú: thôn P, xã B, huyện K, tỉnh Thái Bình
3. Ngƣời làm chứng:
- Anh Trần Anh T, sinh năm 1999, vắng mặt
Nơi cƣ trú: thôn T, xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên
tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 08/7/2024, bị cáo Nguyễn Trọng N có giấy
phép lái xe ô tô hạng B2 số 210165851974 do Sở giao thông vận tải thành phố
Hải Phòng cấp ngày 08/6/2016 điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 89A-075.14 đi
trên đƣờng tránh thị trấn Kiến Xƣơng, huyện Kiến Xƣơng theo hƣớng thành phố
Thái Bình đi huyện Tiền Hải. Khi đi đến đoạn đƣờng tránh thuộc địa phận tổ
dân phố Chấn Đông, thị trấn Kiến Xƣơng, huyện Kiến Xƣơng (đoạn đƣờng
đƣợc gắn các biển báo ký hiệu đƣờng bộ: Biển cấm vƣợt (ký hiệu P.125), biển
báo công trƣờng đang thi công (ký hiệu W227), biển báo đƣờng bị hẹp (ký hiệu
W.203b), biển báo đi chậm (ký hiệu W.245a), biển báo giao nhau với đƣờng
không ƣu tiên (ký hiệu W.207b)). Thời điểm này bị cáoN điều khiển xe ô tô đi
trên phần đƣờng bên phải và trên làn đƣờng giáp dải phân cách và phát hiện thấy
phía trƣớc cách đầu xe ô tô do bị cáo điều khiển khoảng 15 mét có xe đạp do bà
G điều khiển xe đi cùng chiều phía trƣớc, trên làn đƣờng trong cùng bên phải.

3
Do bị cáoN không chấp hành các biển báo hiệu đƣờng bộ, không giảm tốc độ
mà tiếp tục điều khiển xe ô tô đi về phía trƣớc để vƣợt bên trái xe đạp do bà G
điều khiển. Khi còn cách xe đạp do bà G điều khiển khoảng 10m thì bị cáoN
thấy bà G chuyển hƣớng đi sang làn đƣờng giáp dải phân cách mà bị cáoN đang
đi, đây là đoạn đƣờng chuẩn bị kết thúc giải phân cách, nhƣng bị cáoN vẫn tiếp
tục điều khiển xe ô tô đi sát vào giải phân cách và đi vào đoạn mở dải phân cách
bên trái theo chiều đi của bị cáoN để vƣợt bên trái xe đạp do bà G điều khiển
dẫn đến đầu xe bên phải xe ô tô do bị cáoN điều khiển va chạm với thân xe đạp
bên trái do bà G điều khiển làm bà G và xe đạp ngã đổ xuống đƣờng. Hậu quả
bà G tử vong tại chỗ.
Khám nghiệm hiện trƣờng thể hiện:
- Đoạn đƣờng nơi xảy ra tai nạn là đoạn đƣờng thẳng, mặt đƣờng đƣợc trải
apphan tƣơng đối bằng phẳng, đƣợc chia làm hai phần đƣờng xe chạy ngƣợc
chiều nhau bằng dải phân cách ở giữa rộng 2m90, hai bên dải phân cách có lề
đƣợc trải aphan rộng 0m45, liền kề lề dải phân cách hai bên là hai vạch sơn liền
màu trắng rộng 0m20 phân chia dải phân cách với phần đƣờng xe chạy. Theo
hƣớng thành phố Thái Bình đi huyện Tiền Hải phần đƣờng bên phải rộng 6m80,
phần đƣờng trái rộng 6m80. Liền kề hai bên mép đƣờng là rãnh thoát nƣớc rộng
0m30, tiếp đến là hai bên vỉa hè rộng 6m00 cao hơn mặt đƣờng 0m15. Trên
phần đƣờng phải có vạch sơn màu trắng dài ngắt quãng chia đƣờng thành hai làn
đƣờng xe chạy rộng 3m16 và 3m64. Tại hiện trƣờng có nhiều cát đá nhỏ nằm rải
rác trên mặt đƣờng. Trên hiện trƣờng có đoạn mở trên dải phân cách đƣợc trải
apphan tƣơng đối bằng phẳng so với mặt đƣờng, có độ dài 60m, rộng 3m78,
đƣợc ngăn cách với hai phần đƣờng xe chạy bằng vạch sơn liền màu trắng có độ
rộng 0m20, hai đầu đoạn mở của dải phân cách gắn biển cấm đi ngƣợc chiều
Trên phần đƣờng phải giáp đoạn đƣờng mở dải phân cách theo hƣớng thành
phố Thái Bình đi huyện Tiền Hải có: 05 vết trƣợt xƣớc (1, 2, 3, 4, 5), mũ, đám máu,
dép trái, dép phải, mảnh nhựa, mảnh gƣơng, xe đạp, nạn nhân.
Kết quả khám nghiệm phƣơng tiện liên quan đến tai nạn giao thông thể hiện:
- Đối với xe mô tô BKS 89A-075.14, xe có 02 gƣơng chiếu hậu bên
trái, các bánh lốp đều còn hơi, hiện tại mất mới toàn bộ cụm gƣơng chiếu hậu
bên phải…
- Đối với xe đạp một tuýp lƣợn, dạng xe mini: bánh trƣớc hết hơi, bánh sau
còn hơi. Bánh trƣớc tuột rời khỏi càng…
Bản kết luận giám định tử thi số 1054/KLGĐTT-KTHS ngày 18/7/2024
của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “ 1. Các kết quả
chính: Khám ngoài: Trên tử thi có các vết sây sát da, rách thủng da, trợt xƣớc,
miết da, lóc da, sƣng nề, tụ máu tại vùng đầu, mặt và toàn thân. Gãy hai xƣơng

4
sƣờn bên trái, gãy xƣơng đùi phải. Khám trong: Vỡ xƣơng sọ vùng trán trái
thành nhiều mảnh, xƣơng vỡ lún vào trong, chảy máu não.
2. Kết luận: Nạn nhân Mai Thị G chết do chấn thƣơng sọ não và đa
chấn thƣơng”.
Vật chứng của vụ án:
Xe mô tô biển kiểm soát BKS 89A-075.14 do bị cáoN điều khiển đã trả
lại cho bị cáo và xe đạp do bà G điều khiển đã đƣợc trả lại cho anh Học là
ngƣời ủy quyền hợp pháp của bà G.
Trách nhiệm dân sự: Tại giai đoạn điều tra, bị cáo đã tự nguyện bồi
thƣờng cho gia đình bị hại tổng số tiền 155.000.000 đồng, đại diện hợp pháp của
bị hại đã nhận đủ số tiền trên, không còn yêu cầu gì khác và có đơn xin giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Tại bản Cáo trạng số 99/CT-VKSKX ngày 24/10/2024, Viện kiểm sát
nhân dân huyện Kiến Xƣơng, tỉnh Thái Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Trọng N
về tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đƣờng bộ" theo quy định tại
điểm điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm nhƣ đã truy tố trong bản
cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng N phạm tội “ Vi phạm quy định về tham
gia giao thông đƣờng bộ”.
- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 38, Điều 50 và Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng N từ
01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù nhƣng cho hƣởng án treo. Thời gian thừ
thách từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng kể từ ngày tuyên án. Không đề xuất áp dụng
hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Về trách nhiệm dân sự: Tại giai đoạn điều tra, bị cáo đã bồi thƣờng cho
gia đình bị hại tổng số tiền 155.000.000 đồng, đại diện hợp pháp của bị hại đã
nhận đủ số tiền trên, không còn yêu cầu gì khác nên không giải quyết. Đại diện
hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thƣờng thiệt hại đối với phần hƣ hỏng
của xe đạp nên không đặt ra giải quyết.
- Về việc xử lý vật chứng: Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô
tô BKS 89A-075.14 cho bị cáo và xe đạp cho anh Học. Anh Học không yêu cầu bị
cáo bồi thƣờng thiệt hại phần hƣ hỏng của xe đạp nên không đặt ra giải quyết.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo
không tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị
5
cáo. Đại diện hợp pháp của bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình
phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã
được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện
Kiến Xƣơng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xƣơng, Kiểm
sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình
tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên
tòa, bị cáo, ngƣời đại diện hợp pháp của bị hại không ai có ý kiến hoặc khiếu nại
về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng.
Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến
hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản
cáo trạng, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời
khai của ngƣời làm chứng, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trƣờng, sơ
đồ hiện trƣờng, kết luận giám định tử thi, biên bản khám nghiệm phƣơng tiện
liên quan đến tai nạn giao thông cũng nhƣ các tài liệu khác có trong hồ sơ.
[3] Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 05 giờ 30
phút ngày 08/7/2024, bị cáo Nguyễn Trọng N có giấy phép lái xe ô tô theo quy
định, điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 89A-075.14 đi trên đƣờng tránh thị trấn
Kiến Xƣơng, huyện Kiến Xƣơng theo hƣớng thành phố Thái Bình đi huyện Tiền
Hải. Khi đi đến đoạn đƣờng tránh thuộc địa phận tổ dân phố Chấn Đông, thị trấn
Kiến Xƣơng, huyện Kiến Xƣơng (đây là đoạn đƣờng đƣợc gắn các biển báo:
Biển cấm vƣợt, biển báo công trƣờng đang thi công, biển báo đƣờng bị hẹp, biển
báo đi chậm, biển báo giao nhau với đƣờng không ƣu tiên), do bị cáoN điều
khiển xe không chấp hành biển báo hiệu đƣờng bộ, vƣợt xe không đảm bảo an
toàn dẫn đến đầu xe ô tô bên phải do bị cáoN điều khiển đã va chạm vào thân xe
đạp bên trái do bà Mai Thị G điều khiển làm bà G và xe đạp ngã đổ xuống
đƣờng. Hậu quả bà G tử vong tại chỗ.
Hành vi của bị cáo Nguyễn Trọng N đã vi phạm quy định tại khoản 1
Điều 11; khoản 2, điểm a khoản 5 Điều 14 Luật Giao thông đƣờng bộ; khoản 1
Điều 5 Thông tƣ số 31 ngày 29/8/2019 quy định về tốc độ và khoảng cách an
toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đƣờng bộ gây tai
nạn giao thông gây hậu quả làm chết 01 ngƣời, nên đã phạm vào tội “Vi phạm
quy định về tham gia giao thông đƣờng bộ” đƣợc quy định tại điểm a khoản 1
Điều 260 Bộ luật Hình sự.

6
Luật Giao thông đƣờng bộ quy định:
Điều 11. Chấp hành báo hiệu đường bộ.
1. Người tham gia giao thông phải chấp hành hiệu lệnh và chỉ dẫn của hệ
thống báo hiệu đường bộ.
Điều 14. Vượt xe.
….
2. Xe xin vượt chỉ được vượt khi không có chướng ngại vật phía trước,
không có xe chạy ngược chiều trong đoạn đường định vượt, xe chạy trước không
có tín hiệu vượt xe khác và đã tránh về bên phải.
...
5. Không được vượt xe khi có một trong các trường hợp sau đây:
a) Không bảo đảm các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này.
...
Thông tƣ 31 ngày 29/8/2019 quy định về tốc độ và khoảng cách an
toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đƣờng bộ.
Điều 5. Các trường hợp phải giảm tốc độ.
Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ phải giảm
tốc độ để có thể dừng lại một cách an toàn trong các trường hợp sau:
1. Có báo hiệu cảnh báo nguy hiểm hoặc có chướng ngại vật trên đường.
….
Hội đồng xét xử kết luận: Bị cáo Nguyễn Trọng N phạm tội "Vi phạm quy
định về tham gia giao thông đƣờng bộ" theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều
260 Bộ luật Hình sự.
.Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đƣờng bộ:
“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an
toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng,
phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a, Làm chết 01 người
….
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
7
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến
trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ, khi tham gia giao thông bị cáo đã không
chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về tham gia giao thông đƣờng bộ, đã gây
ra tai nạn nghiêm trọng gây thiệt hại đến tính mạng của bà Mai Thị G, gây mất
mát đau thƣơng rất lớn cho gia đình bị hại. Vì vậy cần phải áp dụng hình phạt xử
phạt tƣơng ứng với tính chất, mức độ đối với hành vi phạm tội của bị cáo, có
nhƣ vậy mới đủ tác dụng cải tạo giáo dục đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa
tội phạm nói chung.
[5] Bị cáoN chƣa có tiền án, tiền sự, không phải chịu tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành
khẩn, tự nguyện tích cực bồi thƣờng cho gia đình bị hại và đƣợc đại diện hợp
pháp của bị hại làm đơn đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo-là các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo đƣợc hƣởng quy định tại điểm b, s khoản 1 và
khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Mặt khác bị cáo là ngƣời có nhân thân tốt chƣa
có tiền án, tiền sự, có nơi cƣ trú cụ thể, rõ ràng, ngoài hành vi phạm tội lần này thì
bị cáo không có vi phạm pháp luật nào khác. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có
khả năng tự cải tạo và việc để bị cáo cải tạo ngoài xã hội không ảnh hƣởng xấu đến
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần
hình phạt cho bị cáo, không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, cần áp dụng
Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo tự cải tạo ngoài xã hội, tạo điều kiện để bị cáo
cải tạo và sửa chữa sai lầm, sớm trở thành ngƣời công dân có ích cho xã hội là phù
hợp với quy định của pháp luật, chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nƣớc ta
hiện nay.
[6] Không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy
định tại khoản 5 Điều 260 Bộ luật Hình sự.
[7] Về trách nhiệm dân sự:
Bị cáo cùng gia đình đã bồi thƣờng cho đại diện bị hại tổng số tiền
155.000.000 đồng (gồm viện phí, tổn thất tinh thần và các chi phí khác), đại diện
hợp pháp của bị hại đã nhận đủ số tiền trên, không còn yêu cầu gì khác nên Hội
đồng xét xử không giải quyết.
[8] Về xử lý vật chứng:
- Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kiến Xƣơng đã trả lại xe ô tô
biển kiểm soát 89A-075.14 cho bị cáo và xe đạp cho ngƣời đại diện hợp pháp của
bị hại nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

8
[9] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Trọng N phải nộp án phí hình sự sơ thẩm
theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều
38, Điều 50 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự; Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố
tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thƣờng vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
I. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trọng N phạm tội "Vi phạm quy định về
tham gia giao thông đƣờng bộ".
II. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng N 01 (một) năm 09 (chín)
tháng tù nhƣng cho hƣởng án treo. Thời gian thử thách là 03(ba) năm 06 (sáu)
tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 27/11/2024.
Giao bị cáo Nguyễn Trọng N cho Uỷ ban nhân dân phƣờng Nhân Hòa, thị
xã Mỹ Hào, tỉnh Hƣng Yên giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trƣờng
hợp ngƣời đƣợc hƣởng án treo thay đổi nơi cƣ trú thì thực hiện theo quy định tại
Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, ngƣời đƣợc hƣởng án treo cố ý vi phạm nghĩa
vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc ngƣời đƣợc hƣởng án treo
phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hƣởng án treo.
IV. Về án phí:
Bị cáo Nguyễn Trọng N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
V. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày
kể từ ngày tuyên án. Đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo trong hạn
15 ngày kể từ ngày nhận đƣợc bản án hoặc bản án đƣợc niên yết.
Nợi nhận:
- VKSND huyện Kiến Xƣơng;
- CA huyện Kiến Xƣơng;
- Bị cáo;
- Bị hại;
- Lƣu hồ sơ.
TM. Héi ®ång xÐt xö s¬ thÈm
ThÈm ph¸n - Chñ to¹ phiªn toµ
Lê Thị Thanh Xuân
9
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Các Hội thẩm nhân dân
Thẩm phán- Chủ toạ phiên toà
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 07/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 28/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 22/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 16/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 01/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 06/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 25/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 17/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 15/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 08/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 01/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 15/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 12/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 12/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 09/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 05/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 03/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm