Bản án số 90/2023/HS-ST ngày 10/08/2023 của TAND huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên về tội cưỡng đoạt tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 90/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 90/2023/HS-ST ngày 10/08/2023 của TAND huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên về tội cưỡng đoạt tài sản
Tội danh: 135.Tội cưỡng đoạt tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Văn Giang (TAND tỉnh Hưng Yên)
Số hiệu: 90/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 10/08/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Tuyên bố các bị cáo phạm tội "Cưỡng đoạt tài sản"
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN VĂN GIANG
TỈNH HƢNG YÊN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 90/2023/HSST
Ngày: 10/8/2023
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN GIANG, TỈNH HƢNG YÊN
- Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán-Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Miện
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Lê Hải Dương
Ông Tạ Minh Tiếp
- Thƣ ký phiên tòa: Trịnh Thị Phương - Thư Tòa án nhân dân huyện
Văn Giang
- Đại diện VKSND huyện Văn Giang tham gia phiên tòa: Thị L -
Kiểm sát viên
Ngày 10 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Giang xét
xử công khai
vụ án hình sự thẩm
thụ số 80/TLST-HS ngày 03 tháng 7 năm
2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2023/QĐXXST-HS ngày
14/7/2023 đối với:
* Các bị cáo:
1. Phạm Đình T; tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1990 tại: huyện N, tỉnh
Hải Dương; Nơi đăng HKTT: Thôn N, V, huyện N, tỉnh Hải Dương; Quốc
tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ học
vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Phạm Đình Đ, sinh năm 1962
bà: Nguyễn Thị M, sinh năm 1961; Vợ: Không (đã ly hôn với Thị M1);
01 con sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tạm giữ từ ngày 11/01/2023
đến ngày 17/01/2023 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt)
2. Vƣơng Văn T1; tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1994 tại: huyện Y, tỉnh
Tuyên Quang; Nơi đăng HKTT: Thôn H, C, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang;
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ
học vấn: 0/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Vương Văn T2, sinh năm
1960 bà: Đinh Thị N, sinh năm 1966; Vợ, con: Không; Tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Năm 2020 bị Công an huyện Y, tỉnh Tuyên Quang xử phạt hành chính
2
về hành vi Đánh bạc; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2023. Bị cáo đang
bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Hưng Yên. (Có mặt)
* Bị hại: Anh Quàng Văn Đ1, sinh năm: 2002 (Vắng mặt)
Địa chỉ: Bản Đ, xã M, huyện Q, tỉnh Sơn La
* Ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Nguyễn Thị M, sinh năm: 1961 (Vắng mặt)
Địa chỉ: Thôn N, xã V, huyện N, tỉnh Hải Dương
- Ông Đặng Văn P, sinh năm: 1973 (Vắng mặt)
Địa chỉ: Thôn D, xã D, huyện H, tỉnh Bắc Giang.
- Chị Lò Thị T3, sinh năm: 1981 (Vắng mặt)
Địa chỉ: Bản Đ, xã M, huyện Q, tỉnh Sơn La
- Chị Dương Ánh H, sinh năm: 1988 (Vắng mặt)
Địa chỉ: Tổ G, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng
- Chị Lò Thị T4, sinh năm: 1997 (Vắng mặt)
Địa chỉ: Thôn A, xã N, huyện V, tỉnh Hưng Yên
* Ngƣời làm chứng:
- Anh Trịnh Đức H1, sinh năm: 1988 (Vắng mặt)
Địa chỉ: Số D, ngõ A, đường T, phường T, quận B, thành phố Hà Nội
- Anh Lò Văn T5, sinh năm: 1998 (Vắng mặt)
Địa chỉ: Bản T, xã T, huyện T, tỉnh Lai Châu
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Phạm Đình T, sinh năm 1990, HKTT: Thôn N, V, huyện N, tỉnh Hải
Dương công nhân làm thuê trong công trường xây dựng khu đô thị S thuộc xã N,
huyện V. Vào sáng ngày 05/01/2023, T đi từ nhà trọ tại thôn P, xã N ra đường L,
N để đi làm thì gặp bạn có tên T6 (nhưng không lai lịch cụ thể). T biết T6 đã
từng sử dụng chất ma túy, nên đã nhờ T6 theo dõi các đối tượng bán ma túy để báo
tin cho quan Công an xử lý, thì T6 đồng ý. Chiều ngày 05/01/2023, T nhận
được điện thoại của T6 báo tin cho T biết: T6 sẽ rủ bạn Vương Văn T1 (thường
gọi là P1), sinh năm 1994, HKTT: Thôn H, xã C, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang cùng
theo dõi đối tượng bán ma túy thì T cũng đồng ý.
3
Khoảng 11 giờ ngày 09/01/2023, T6 cùng Lê Văn T7 sinh năm 1998,
HKTT: Bản Mỳ, xã T, huyện T, tỉnh Lai Châu, Q một nam thanh niên (đều
bạn T6 và chưa rõ lai lịch) đến căn hộ S đường Đ thuộc phân khu B khu đô thị S thì
phát hiện anh Quàng Văn Đ1, sinh năm 2002, HKTT: Bản Đán Đanh, M, huyện
Q, tỉnh Sơn La có biểu hiện bán trái phép chất ma túy. Thấy vậy, T6 cùng T7, Q
nam thanh niên lạ mặt bảo Đ1 cùng về quán mua bán sắt vụn của chị Thị T4,
sinh năm 1997 tại thôn A, N để nói chuyện. Sau đó T6 gọi điện cho T1 để
thông báo cho T1 biết. Khoảng 12 giờ ngày 09/01/2023, T nhận được điện thoại
của ởng thông báo vviệc T6 đã phát hiện đối tượng nghi vấn bán trái phép ma
tuý đang cùng đối tượng đó tại quán mua bán sắt vụn của chị Thị T4, sinh
năm 1997 tại thôn A, N. Thấy vậy, T điều khiển xe mô nhãn hiệu Honda
Winner, biển số 89B2 - 079.79 của bạn gái chị Dương Ánh H sinh năm 1988,
HKTT: Tổ G, phường S, Tp ., tỉnh Cao Bằng đến quán nhà chị T4. T đi lên phòng
đầu tiên bên phải tầng 2 của quán nhà chị T4 thì thấy T6, T1 Q (là bạn của T6,
chưa lai lịch cụ thể) đang cùng một nam thanh niên được xác định Quàng
Văn Đ1 sinh năm 2002, HKTT: Bản Đán Đanh, M, huyện Q, tỉnh Sơn La. Thái
nhìn trên mặt bàn 01 túi nilon nên hỏi Đ1: “đây cái gì” thì Đ1 nói: “đây
ma túy, do Đ1 mua về để sử dụng và bán kiếm lời”. T bảo T1, T6 Q đi xuống để
T nói chuyện riêng với Đ1. T nói sẽ tố cáo với quan Công an để xử Đ1 về
hành vi “mua bán trái phép chất ma túy”. Nghe T nói vậy, Đ1 lo sợ, đã khóc và quỳ
xuống cầu xin T không báo Công an xin nộp tiền cho T. Lúc này, T nảy sinh ý
định chiếm đoạt tiền của Đ1, nên T hỏi Đ1: mày nộp được bao nhiêuthì Đ1 trả
lời: em 20.000.000đ đến 30.000.000đ”. T lại nói: Phải nộp ít nhất
25.000.000đ đến 30.000.000đ còn không thì sẽ báo Công an”. Do Đ1 đã từng bị kết
án về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, nên rất sợ bị lực lượng Công an bắt giữ
xvề hành vi nói trên, chính vậy Đ1 đã phải đồng ý theo yêu cầu của T.
Tuy nhiên Đ1 chỉ mang theo số tiền mặt 1.300.000đ nên Đ1 xin được đưa trước
số tiền này, rồi sẽ chuyển khoản cho T 25.000.000đ thì T đồng ý. Sau đó T cũng
xuống tầng 1 quán nhà chị T4, còn Đ1 vẫn ngồi trên tầng 2. T xuống thấy T1 và T6
đang ngồi uống nước, còn Q đi đâu không rõ. T đã bàn bạc và thống nhất với T1
T6 là: không báo tin cho quan Công an nữa, Đ1 sợ bị Công an xử nên đã
đồng ý nộp cho T 26.300.000đ; nếu được số tiền này thì T, T1 và T6 sẽ chia
nhau nên cả Tưởng và T6 cũng đều đồng ý. T bảo T1 lấy giấy, bút để viết số tài
khoản cho Đ1 chuyển tiền. ởng đi ra quầy nước của chị T4 tlấy mảnh giấy
chiếc bút đưa cho T. T cầm bút và giấy đi lên tầng 2 rồi viết số tài khoản
101875327278 mang tên Nguyễn Thị M (là mẹ của T) mở tại Ngân hàng V, nhưng
lấy số điện thoại của bạn gái là ơng Ánh H để nhận thông báo giao dịch còn T
người sử dụng số tài khoản trên. T đưa tờ giấy trên cho Đ1 và bảo chuyển
25.000.000đ theo số tài khoản này thì Đ1 đồng ý. Sau đó T lại đi xuống tầng 1
thanh toán cho chị T4 200.000đ tiền nước uống của T1 T6; đưa cho Tưởng
100.000đ và bảo T6 lại chờ Đ1 chuyển đủ tiền thì gọi điện báo tin cho T, khi nào
xong việc, tT sẽ chia tiền sau cho T6 T1. T6 đồng ý ngồi lại chờ, còn T T1
4
ra về trước. Lúc này, Đ1 trên tầng 2 dùng điện thoại chuyển 10.000.000đ từ tài
khoản số 7908281007960 của Đ1 mở tại Ngân hàng N1 chi nhánh huyện Q, tỉnh
Sơn La vào số tài khoản của mang tên M mà T đưa cho, rồi tiếp tục gọi điện về cho
mẹ Thị T3, sinh năm 1981, HKTT: Bản Đán Đanh, M, huyện Q, tỉnh
Sơn La bảo chuyển tiếp 15.000.000đ vào số tài khoản mang tên theo yêu cầu
của T. Khoảng 05 phút sau, Đ1 đi xuống tầng 1 nói với T6 đã chuyển đủ
25.000.000đ. Cũng trong khoảng thời gian này, chị H báo tin cho T biết đã nhận
được số tiền 25.000.000đ, nên T gọi điện bảo T6 cho Đ1 về không báo tin cho
cơ quan Công an nữa.
Ngày 10/01/2023, Đ1 đến trình báo Công an huyện V về việc bị nhóm thanh
niên lmặt chiếm đoạt tiền như nêu trên đồng thời tự nguyện giao nộp xe
biển số 29F1- 540.20 Đ1 đã sử dụng để đi đến đường Đ khu đô thị S mục đích
để bán ma túy. quan CSĐT Công an huyện V kiểm tra người Đ1 nhưng không
thấy dấu vết, thương tích trên người cũng không phát hiện đồ vật liên quan
đến ma túy.
Ngày 11/01/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện V đã tổ chức khám
nghiệm hiện trường tại căn hộ số 40 đường Đ tại tầng 2 quán mua bán sắt vụn
của chị T4. Đồng thời tiến hành kiểm tra rà soát tại hai địa điểm nói trên để truy tìm
túi nilon chứa ma ttheo lời khai của Đ1 nhưng không phát hiện thu giữ được
tài liệu đồ vật gì.
Ngày 11/01/2023, trong khi cơ quan CSĐT Công an huyện V đang tiến hành
xác minh thì T đến tự thú. Trước đó, T đã chuyển khoản trả lại cho Đ1 số tiền
25.000.000đ đồng, giao nộp cho quan điều tra quản số tiền 1.100.000đ 01
chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 14 promax T đã sử dụng đliên hệ với T6.
Cơ quan CSĐT Công an huyện V tiến hành kiểm tra chiếc điện thoại đã thu giữ của
T nhưng không thu thập được thông tin gì có liên quan. Cùng ngày, Vương Văn T1
cũng đến quan CSĐT Công an huyện V đầu thú thành khẩn khai nhận hành
vi phạm tội như trên, T1 khai đã sử dụng chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 1280
màu đen (không nhớ số) để liên lạc với T nhưng đã làm mất vào ngày 10/01/2023.
Ngày 12/01/2023, chị T4 biết số tiền 200.000đ mà T trả tiền nước cho mình
do phạm tội nên đã giao nộp cho quan điều tra Công an huyện V. Chị
T4 cũng đã nhận lại 200.000đ khác từ T nên không đề nghị gì. Chị T4 không
biết ai là người lấy giấy, bút ở quán của chị, không biết hành vi phạm tội của T, T1,
T6 nên Cơ quan CSĐT Công an huyện V không xem xét xử lý đối với chị T4.
Quá trình điều tra xác định: T T1 quen biết T6 nhưng không rõ lý lịch,
địa chỉ của T6. Các bị cáo không biết rõ lý lịch của Q, T7 và nam thanh niên lạ mặt
đã cùng đi với T6 để theo dõi người bán ma túy vào ngày 09/01/2023. Hơn nữa T
T1 cũng xác định Q, T7 và nam thanh niên không biết T đe doạ Đ1 để chiếm
đoạt tài sản, nên không có căn cứ để xử lý.
5
Tại cơ quan điều tra, Quàng Văn Đ1 khai nhận túi nilon chứa chất màu trắng
bị 4 thanh niên phát hiện căn hộ D đường Đ vào ngày 09/01/2023 là ma túy do
Đ1 mua của người đàn ông (chưa lịch) khu vực quận H, Nội vào ngày
08/01/2023 về chia nhỏ để bán kiếm lời; sau khi bị T phát hiện, sợ bị Công an bắt
giữ nên Đ1 đã bỏ lại túi nilon chứa ma túy trên tầng 2 quán nhà chị T4 rồi đi về nên
không biết ai đã lấy mất. Do không thu được số ma tuý nói trên, nên quan
CSĐT Công an huyện V đã tách vụ án ỡng đoạt tài sản để tiếp tục điều tra xác
minh đối với hành vi giúp sức của T6 đồng thời cũng tiếp tục xác minh làm rõ hành
vi có dấu hiệu bán trái phép chất ma túy của Đ1, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.
Đối với mảnh giấy ghi số tài khoản của M do T đưa cho Đ1: Sau khi Đ1
chuyển khoản 25.000.000đ theo yêu cầu của T, Đ1 đã cầm mảnh giấy đi về vứt
đường (không nhớ vị trí) nên quan CSĐT Công an huyện V không thu gi
được.
Đối với chiếc xe máy biển số 29F1-540.20 được xác định là của anh Đặng
Văn P sinh năm 1973, HKTT: Thôn D, D, huyện H, tỉnh Bắc Giang đã cho Đ1
mượn để làm phương tiện đi lại, không biết Đ1 sử dụng để thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật. Ngày 20/02/2023, quan CSĐT Công an huyện V đã trả lại cho
anh P chiếc xe trên và anh P không có yêu cầu gì.
Sau khi nhận được tiền do T chuyển trả, anh Đ1 đã trả lại cho mbà
Thị T3 số tiền 15.000.000đ. Nay anh Đ1 yêu cầu T phải trả lại số tiền
1.300.000đ, đồng thời có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.
Đối với Nguyễn Thị M, chị Dương Ánh H không biết việc T sử dụng số
tài khoản ngân hàng đăng tên M đăng nhận thông báo giao dịch bằng
số điện thoại của H để chiếm đoạt tài sản của anh Đ1. Vào ngày 09/01/2023, chị H
cho T mượn xe biển số 89B2 - 079.79 làm phương tiện đi lại T đã trả lại
xe cho chH. Chị H không biết T đi xe của chị đến quán của chị T4 chiếm đoạt
tài sản của anh Đ1 nên quan CSĐT Công an huyện V không thu giữ chiếc xe
mô tô trên của chị H và không xem xét xử lý đối với bà M, chị H.
Quá trình điều tra, Phạm Đình T, Vương Văn T1 đều thành khẩn khai nhận
hành vi phạm tội của mình.
Vật chứng đã thu giữ chưa xử lý: 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone 14
promax; số tiền 1.300.000đ.
Tại bản o trạng số 87/CT-VKSVG ngày 03/7/2023 của Viện Kiểm sát
nhân dân huyện Văn Giang đã truy tố các bị cáo Phạm Đình T, Vương Văn T1 về
tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo khoản 1 điều 170 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
- Các bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, khẳng định việc
Thái đi về quán mua bán sắt vụn của chị Thị T4 các bị cáo không mặt nên
6
không biết. Việc T ở lại quán của chị T4 đến khi chuyển khoản xong tiền cho các bị
cáo là do T sợ bị các bị cáo báo Công an về hành vi mua bán trái phép chất ma túy,
không có việc các bị cáo dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực để buộc bị cáo phải đi
theo lại quán của chị T4. Bị cáo T không yêu cầu bị cáo T1 phải hoàn trả bị
cáo số tiền 100.000 đồng trong số tiền 1.100.000 đồng bị cáo đã nộp lại để trả
lại anh Đ1.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Giang giữ nguyên quan điểm
đã truy tố như nội dung bản Cáo trạng. Đề nghị HĐXX:
Tuyên bố các bị cáo Phạm Đình T, Vương Văn T1 phạm tội “Cưỡng đoạt tài
sản”.
Áp dụng: Khoản 1 điều 170; Điều 17; điểm s, b, r, t khoản 1, khoản 2 điều
51; Điều 58; Khoản 1,2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Phạm Đình T. Xử
phạt bị cáo Phạm Đình T t01 năm 09 tháng đến 02 năm nhưng cho hưởng án
treo, thời gian thử thách từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm, thời hạn tính từ ngày
tuyên án sơ thẩm.
Áp dụng: Khoản 1 điều 170; Điều 17; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều
58; Khoản 1,2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự; Khoản 4 điều 328 của Bộ luật tố tụng
hình sự đối với bị cáo Vương Văn T1. Xử phạt bị cáo Vương Văn T1 từ 01 năm 03
tháng đến 01 năm 06 tháng nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách t02
năm 06 tháng đến 03 năm, thời hạn tính từ ngày tuyên án thẩm. Trả tự do ngay
tại phiên tòa cho bcáo Vương Văn T1 nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội
phạm khác.
Giao các bị cáo cho Ủy ban nhân dân nơi các bị cáo trú giám sát, giáo
dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi trú thì thực hiện
theo Luật thi hành án hình sự.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
Về biện pháp pháp xử vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 điều 46,
Điểm a khoản 1 điều 47, khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; Khoản 1, điểm a khoản
2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị HĐXX: Tịch thu cho phát mại
sung quỹ nnước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 Promax, bên trong
có 01 sim V1. Trả lại anh Quàng Văn Đ1 số tiền 1.300.000 đồng.
Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự thẩm theo quy định của
pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên snội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ ván đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng:
7
- Hành vi, quyết định ttụng của quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân
huyện Văn Giang trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền và
trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo những
người tham gia tố tụng khác không có ý kiến thắc mắc, khiếu nại gì đối với hành vi,
quyết định tố tụng của quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Hành vi
tố tụng, Quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đúng quy định của pháp
luật.
- Bị hại, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan người làm chứng vắng
mặt không do, bị cáo không đề nghị gì. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội
đồng xét xử xét xử vụ án vắng mặt họ vì họ đã lời khai trong hồ vụ án và đã
được Tòa án triệu tập hợp lệ, sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xử
vụ án. Xét thấy quan điểm, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát căn cứ nên
HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 292, khoản 1 Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự xét xử
vụ án vắng mặt bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng.
[2]. Về hành vi phạm tội:
Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phợp
khách quan với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai
của bị hại, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, biên bản
khám nghiện hiện trường, biên bản chỉ dẫn, đồ kèm theo các tài liệu, chứng
cứ khác trong hồ vụ án đã được quan điều tra thu thập theo quy định của
pháp luật. Do đó HĐXX đã đủ sở kết luận: Khoảng 15 giờ ngày 09/01/2023, tại
cửa hàng mua bán sắt vụn của chị Thị T4 thôn A, N, huyện V, tỉnh ng
Yên, Phạm Đình T đã đe dọa sẽ tố cáo Quàng Văn Đ1 về hành vi mua bán trái phép
chất ma tuý với quan Công an để uy hiếp, buộc Đ1 phải đưa cho T số tiền
26.300.000 đồng. Trước khi Đ1 chuyển số tiền trên cho T thì T đã thống nhất việc
này với Vương Văn T1 và một người tên T6 (không rõ lý lịch cụ thể) để cùng nhau
chiếm đoạt số tiền trên. Các bị cáo người đủ năng lực trách nhiệm nh sự,
nhận thức hành vi của mình vi phạm pháp luật nhưng lòng tham nên vẫn
thực hiện để chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố
cấu thành tội “Cưỡng đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự.
[3]. Về tính chất nguy hiểm trong hành vi phạm tội của các bị cáo, vai
trò của các bị cáo trong vụ án, các nh tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự và hình phạt:
Hành vi phạm tội của các bị cáo nguy hiểm cho hội đã xâm phạm trực
tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Trong vụ án
đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, không người chủ mưu cầm đầu. Các bị
cáo không bàn bạc trước về việc chiếm đoạt tài sản của anh Đ1. Sau khi T đe dọa
anh Đ1 anh Đ1 đồng ý làm theo yêu cầu của T thì T mới thống nhất với T1
T6. T người chủ động thực hành, nhận tiền, xử tiền chiếm đoạt được của anh
Đ1 nên T phải chịu trách nhiệm hình sự chính trong vụ án. ơng Văn T1 sau khi
8
được T thông báo đã đồng ý làm theo giúp T lấy bút, giấy để thái ghi số tài
khoản để anh Đ1 chuyển tiền đến, đã nhận 100.000 đồng sẽ nhận thêm tiền T
chia từ số tiền chiếm đoạt được của anh Đ1 nên T1 giữ vai trò thứ hai sau T.
Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhtrách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra tại phiên tòa
hôm nay, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo đều phạm tội
lần đầu sau khi phạm tội T đã tự thú, T1 đã đầu thú; Bcáo T đã tự nguyện
chuyển trả anh Đ1 số tiền 25.000.000 đồng giao nộp 1.100.000 đồng cho
quan điều tra đkhắc phục hậu quả; Trong thời gian sinh sống N, T đã tích
cực hợp tác với quan cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh Hưng Yên trong
việc phát hiện tội phạm về ma túy được quan cảnh sát điều tra Công an
huyện V, tỉnh Hưng Yên xác nhận; Anh Đ1 đã đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho
các bị cáo nên bị cáo T được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, r, s, t
khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo T1 được hưởng các tình tiết giảm
nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Về nhân thân: Bị cáo T nhân thân tốt, chưa tiền án, tiền sự. B o T1
đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc, đã chấp hành xong và
được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính đến ngày phạm tội là hơn một năm.
Về hình phạt chính: HĐXX thấy các bị cáo nhiều tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, i trú ràng, ngoài hành vi trộm cắp tài sản lần này bị xét
xử thì bị cáo T không có vi phạm pháp luật nào khác. Bị cáo T1 đến thời điểm hiện
tại đã được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính hơn một năm. Tưởng là đồng
phạm, giữ vai trò không đáng ktrong vụ án. Do đó, không nhất thiết phải cách ly
các bị cáo ra khỏi xã hội mà cho các bị cáo cải tạo tại địa phương cũng đủ điều kiện
cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân ích cho gia đình hội, góp
phần phòng ngừa chung.
Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không nghề nghiệp, thu nhập ổn định
nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[4]. Về xử lý vật chứng:
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 Promax, bên trong có 01 sim V1
xác định bị cáo chủ sở hữu, đây phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội nên
cần tịch thu cho phát mại sung quỹ nhà nước.
[5]. Về trách nhiệm dân sự:
- Số tiền 1.300.000 đồng tiền các bị o chiếm đoạt của anh Đ1, bị cáo T
và chị Lò Thị T4 đã tự nguyện nộp lại, anh Đ1 yêu cầu các bị cáo trả lại là phù hợp
nên chấp nhận yêu cầu của anh Đ1, trả lại anh Đ1 số tiền này.
- Số tiền 100.000 đồng bị cáo T1 nhận được từ tiền chiếm đoạt của anh Đ1,
T1 đã tiêu sài nhân hết. Bị cáo T đã giao nộp số tiền này không yêu cầu T1
9
phải hoàn trả nên ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo T, không truy thu của bị cáo T1
số tiền này.
- Chị Lò Thị T4 đã giao nộp cho quan cảnh sát điều tra Công an huyện V
số tiền 200.000 đồng là tiền các bị cáo chiếm đoạt của anh Đ1 đồng thời T đã trả lại
chị T4 200.000 đồng tiền nước. Chị T4 không yêu cầu nên không đặt ra giải
quyết.
[6]. Các vấn đề khác:
- Quá trình điều tra không xác định được lý lịch, địa chỉ của Q, T7 nam
thanh niên lạ mặt đã cùng đi với T6 để theo dõi người bán ma y vào ngày
09/01/2023. Hơn nữa T T1 cũng xác định Q, T7 và nam thanh niên không biết T
đe dọa Đ1 để chiếm đoạt tài sản, nên không căn cứ để xử đối với Q, T7
nam thanh niên trên.
- Đối với chiếc xe máy biển số 29F1-540.20 được xác định của anh Đặng
Văn P sinh năm 1973, HKTT: Thôn D, D, huyện H, tỉnh Bắc Giang đã cho Đ1
mượn để làm phương tiện đi lại, không biết Đ1 sử dụng để thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật. Ngày 20/02/2023, quan CSĐT Công an huyện V đã trả lại cho
anh P chiếc xe trên và anh P không có yêu cầu gì nên không đặt ra xem xét.
- Đối với bà Nguyễn Thị M, chị Dương Ánh H không biết việc T sử dụng số
tài khoản ngân hàng đăng tên M đăng nhận thông báo giao dịch bằng
số điện thoại của H để chiếm đoạt tài sản của anh Đ1. Ngày 09/01/2023, chị H cho
T mượn xe biển số 89B2 - 079.79 làm phương tiện đi lại T đã trả lại xe
cho chị H. Chị không biết T đi xe của chị đến quán của chị T4 và chiếm đoạt tài sản
của anh Đ1 nên quan CSĐT Công an huyện V không thu giữ chiếc xe
trên của chị H và không xem xét xử đối với M, chị H2 phù hợp, nay không
đặt ra xem xét xử lý.
- Hành vi của các bị cáo đối với anh Đ1 không có đủ căn cứ xác định là hành
vi bắt, giữ người trái pháp luật nên không đặt ra xử lý.
[7]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại
Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị
cáo T đã tự nguyện nộp 1.100.000 đồng để bồi thường cho anh Đ1 trước khi mở
phiên tòa nên các bị cáo không phải chịu án phí dân sự trong vụ án này.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào:
- Khoản 1 điều 170; Điều 17; điểm b, r, s, t khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều
58; Khoản 1,2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Phạm Đình T.
10
- Khoản 1 điều 170; Điều 17; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều 58;
Khoản 1,2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự; Khoản 4 điều 328 của Bộ luật tố tụng hình
sự đối với bị cáo Vương Văn T1.
- Điểm a khoản 1 điều 46; Điểm a khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 1
Điều 48; Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 136; Khoản 1 Điều 292; Khoản
1 điều 293; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.
- Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
2. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Phạm Đình T, Vương Văn T1 phạm tội
“Cưỡng đoạt tài sản”.
3. Mức hình phạt:
Xử phạt bị cáo Phạm Đình T 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù nhưng cho
hưởng án treo, thời gian thử thách 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng, thời hạn tính từ ngày
tuyên án sơ thẩm.
Xử phạt bị cáo Vương Văn T1 01(một) năm 03 (ba) tháng nhưng cho
hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng, thời hạn tính từ
ngày tuyên án thẩm. Trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo Vương Văn T1 nếu
bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.
Giao bị cáo Phạm Đình T cho Ủy ban nhân dân V, huyện N, tỉnh Hải
Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Giao bị cáo Vương Văn T1 cho Ủy ban nhân dân xã C, huyện Y, tỉnh Tuyên
Quang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi trú thì thực hiện theo
quy định tại điều 92 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ
theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án thể quyết
định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt của bản án đã
cho hưởng án treo.
4. Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu cho phát mại sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu
Iphone 14 Promax, bên trong có 01 sim V1.
- Trả lại anh Quàng Văn Đ1 số tiền 1.300.000 (Một triệu ba trăm nghìn)
đồng.
(Theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 24/7/2023 giữa
quan cảnh sát điều tra Công an huyện V Chi cục thi hành án dân sự huyện
Văn Giang và ủy nhiệm chi ngày 24/7/2023 tại Kho bạc nhà nước huyện V)
11
5. Về án phí: Buộc các bị cáo Phạm Đình T, Vương Văn T1 mỗi bị cáo phải
chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Phạm Đình T, Vương Văn T1 quyền
kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể tngày tuyên án. Bị hại, người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể t
ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của
pháp luật.
Nơi nhận:
- Phòng KTNV&THA - TAND tỉnh Hưng Yên;
- VKSND tỉnh Hưng Yên;
- CA huyện V;
- VKS huyện V;
- Chi cục THADS huyện V;
- Bị cáo; Đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
NGUYỄN THỊ MIỆN
Tải về
Bản án số 90/2023/HS-ST Bản án số 90/2023/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất