Bản án số 80/2023/HS-ST ngày 01-06-2023 của TAND TP. Đồng Xoài (TAND tỉnh Bình Phước) về tội trộm cắp tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
80_2023_HS-ST_ BINH PHUOC
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
80_2023_HS-ST_ BINH PHUOC
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 80/2023/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 80/2023/HS-ST ngày 01-06-2023 của TAND TP. Đồng Xoài (TAND tỉnh Bình Phước) về tội trộm cắp tài sản |
---|---|
Tội danh: | 173.Tội trộm cắp tài sản (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Đồng Xoài (TAND tỉnh Bình Phước) |
Số hiệu: | 80/2023/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 01/06/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Nguyễn Hoàng A, Mã Văn Đ, Tô Thành D phạm tội trộm cắp tài sản |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI TỈNH BÌNH PHƯỚC ----------------- Bản án số: 80/2023/HS-ST Ngày: 01/6/2023 |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc -------------- |
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 80/2023/HS-ST NGÀY 01/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 01 tháng 6 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 48/2023/TLST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2023QĐXXST- HS ngày 17 tháng 5 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Hoàng A; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1997, tại Trà Vinh; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp 01, xã Đ, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 07/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm: 1968 và bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm: 1973; Bị cáo có 03 anh em, lớn nhất sinh năm 1991 và nhỏ nhất sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/01/2023 đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Mã Văn Đ; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1982, tại Bình Phước; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp 06, xã Đ, thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 09/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Mã Văn T, sinh năm: 1954 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm: 1958; Bị cáo có 03 anh em, bị cáo lớn nhất và nhỏ nhất sinh năm 1993; Bị cáo có 01 người con sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/01/2023 đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
3. Họ và tên: Tô Thành D; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1980, tại Bình Phước; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp C, xã Đ, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Sửa xe; trình độ văn hóa: 07/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Tô Công C (không rõ năm sinh) và bà Nguyễn Thị Thu H (không rõ năm sinh); Vợ Nguyễn Thị Vân T, sinh năm 1982; Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/01/2023 đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Người bị hại: Ông Lê XuA S - Sinh năm 1980; Trú tại: Khu phố T, thị trấn T, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước (có đơn xin xét xử vắng mặt).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1979; Trú tại: Khu phố 3, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước (có đơn xin xét xử vắng mặt).
2. Ông Nguyễn Đình C, sinh năm 1981; Trú tại: Ấp C, xã Đ, huyện Đồng Phú, Bình Phước (có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 13/01/2023, Mã Văn Đ điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda, loại Wave S, màu đỏ đen bạc, biển số: 93P1-xxx.xxtừ nhà của mình đến nhà Tô Thành D tại ấp Cầu Hai, xã Đ, huyện Đồng Phú để chơi, đến khoảng 00 giờ ngày 14/01/2023, A rủ Đ đi tìm kiếm nhà dA sơ hở để trộm cắp tài sản bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. Sau đó, Đ điều khiển xe môtô trên chở A đến địa bàn thành phố Đ, khi đi đến đoạn đường Lê Duẩn thuộc khu phố Phú T, phường T, thành phố Đ thì cả hai phát hiện phía trước khu vực nhà liền kề có 01 cây mai vàng còn sống có chiều cao 1.9m, hoành tán 1.7m, đường kính gốc 0.09m của anh Lê XuA S không có ai trông coi. Lúc này, Đ điều khiển xe mô tô dừng lại, A xuống xe đi đến nhổ trộm cây mai và cùng với Đ lên xe mô tô, sau đó cả hai cùng nhau chở cây mai về nhà của D cất giấu. Tại đây, D hỏi nguồn gốc của cây mai thì A trả lời “Cây mai em mới lấy về”, D hiểu cây mai này là do A và Đ trộm cắp mà có. Sau đó, A và Đ để cây mai ở trước sA nhà D rồi vào phòng bếp ngủ. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, A nhờ D tìm người bán giúp cây mai thì D đồng ý, D sử dụng khoản Facebook có tên “Thanh D To” liên lạc với anh Nguyễn Văn T để bán cây mai thì anh T đồng ý mua với giá 3.000.000 đồng, đến khoảng 16 giờ cùng ngày, anh T xuống nhà D để xem cây mai và gặp Đ xác nhận lại việc mua bán. Đ gọi cho anh Nguyễn Đình C, là người chạy xe ba gác chở cây mai và đi cùng Đ đến nhà anh T tại khu phố 3, phường TA Đồng, thành phố Đ. Tại đây, anh T trả cho Đ số tiền 3.000.000 đồng và cho D 100.000 đồng tiền công giới thiệu. Sau đó, Đ đưa cho A số tiền 1.100.000 đồng, trả tiền xe ba gác cho anh C số tiền 100.000 đồng, số tiền còn lại Đ tiêu xài cá nhA hết, sau đó Mã Văn Đ và Nguyễn Hoàng A đến Công an thành phố Đ đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.
Kết luận định giá số 06/KLĐG ngày 17/01/202của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đ, kết luận: Tại thời điểm tháng 01/2023 giá trị của 01 cây mai vàng, đang còn sống, chiều cao 1,9m; hoành tán 1,7m; đường kính gốc 0,09m, thu hồi được tài sản là: 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) Tại Bản cáo trạng số 69/CTr-VKS ngày 12/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Bình Phước đã truy tố các bị cáo Mã Văn Đ và Nguyễn Hoàng A về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Tô Thành D về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự;
Tại phiên tòa, Đ diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 50 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự, đề nghị phạt bị cáo Mã Văn Đ mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù.
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 50 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự, đề nghị phạt bị cáo Nguyễn Hoàng A mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù.
Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm i, s, khoản 1 Điều 51; Điều 36 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự, đề nghị phạt bị cáo Tô Thành D mức án từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị:
Sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A13, màu đen, sim số 0924.184.xxx thu giữ của bị cáo D.
Trả lại cho bị cáo Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A50 màu đen, sim số 0968.006.xxx.
Giao Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ, tỉnh Bình Phước tiếp tục xác minh làm rõ chiếc xe môtô, hiệu Honda, loại Wave S, màu đỏ đen bạc, số máy JC52E – 4303340, biển số: 93P1-xxx.xxđể xử lý theo quy định pháp luật.
Về trách nhiệm dA sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét.
Tại phiên tòa, các bị cáo xác nhận nội dung bản cáo trạng là đúng với hành vi các bị cáo thực hiện, các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo; người bị hại không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng số 69/CTr-VKS ngày 12/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Bình Phước.
Xét lời khai tại phiên tòa là phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú, biên bản thu giữ tài sản, đồ vật, kết luận điều tra, vật chứng vụ án cùng các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa, thấy phù hợp về thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội của các bị cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Do muốn có tiền tiêu xài cá nhA nên khoảng 00 giờ ngày 14/01/2023, bị cáo Mã Văn Đ và bị cáo Nguyễn Hoàng A có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 cây mai vàng, đang còn sống, chiều cao 1,9m, hoành tán 1,7m, đường kính gốc 0,09m của anh Lê XuA S tại khu phố Phú T, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước. Giá trị tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt là 5.000.000 đồng.
Bị cáo Tô Thành D biết rõ cây mai là tài sản do các bị cáo Đ và A trộm cắp mà có nhưng vẫn liên hệ bán cho anh Nguyễn Văn T với số tiền 3.000.000 đồng, nhằm hưởng lợi bất chính số tiền 100.000 đồng.
Căn cứ hành vi các bị cáo Đ và A thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do tổng giá trị tài sản các bị cáo Đ và A chiếm đoạt là 5.000.000 đồng nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố các bị cáo Mã Văn Đ và Nguyễn Hoàng A về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự; Đối với bị cáo Tô Thành D bị truy tố về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3]. Các bị cáo là người đã thành niên, hoàn toàn nhận thức được việc lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản để chiếm đoạt là hành vi phạm tội nhưng vì mục đích vụ lợi, chây lười lao động, muốn có tiền tiêu xài cá nhA mà các bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người bị hại, là khách thể được pháp luật bảo vệ. Vì vậy cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội.
[4]. Đây là vụ án đồng phạm nên cần phân tích vị trí, vai trò của các bị cáo để cá thể hóa hình phạt.
Trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Hoàng A tham gia với vai trò là người khởi xướng, rủ rê và là người thực hành; Bị cáo Mã Văn Đ tham gia với vai trò là người thực hành; Bị can Tô Thành D tham gia với vai trò là người giúp sức, mặc dù không hứa hẹn trước việc tiêu thụ tài sản do các bị cáo Đ và A phạm tội mà có, nhưng sau biết được tài sản do các bị cáo lấy trộm nhưng vẫn liên hệ bán cho ông Nguyễn Văn T với số tiền 3.000.000 đồng, nhằm hưởng lợi bất chính số tiền 100.000 đồng.
[5]. Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6]. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Sau khi phạm tội các bị cáo Mã Văn Đ và Nguyễn Hoàng A đã ra đầu thú.
Xét bị cáo D có nhiều tình tiết giảm nhẹ, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nên Hội đồng áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách, giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục cũng đủ tác dụng răn đe giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.
[7] Về trách nhiệm dA sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8]. Vật chứng vụ án:
01 cây mai vàng, đang còn sống, chiều cao 1,9m, hoành tán 1,7m, đường kính gốc 0,09m, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã lại cho người bị hại ông Lê XuA S nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A50 màu đen, sim số 0968.006.xxx thu giữ của bị cáo Đ không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo Đ.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A13 màu đen, sim số 0924.184.xxx, đây là điện thoại bị cáo D dùng vào việc phạm tội nên cần tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
Đối với chiếc xe môtô hiệu Honda, loại Wave S, màu đỏ đen bạc, số máy JC52E – 4303340, biển số: 93P1-xxx.xxlà phương tiện các bị cáo Đ và A dùng vào việc phạm tội. Quá trình điều tra chưa xác minh làm việc được với chủ sở hữu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ tách ra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[9]. Đối với ông Nguyễn Văn T là người mua lại cây mai vàng do các bị cáo A và Đ trộm cắp mà có. Quá trình điều tra xác định T không biết cây mai này là tài sản do các bị cáo Đ và A phạm tội mà có nên không đề cập xử lý.
Đối với ông Nguyễn Đình C là người chở thuê cây mai vàng đến nhà ông Nguyễn Văn T. Quá trình điều tra xác định ông C không biết cây mai này là tài sản do các bị cáo Đ và A phạm tội mà có nên không đề cập xử lý.
[10]. Đề nghị của Đ diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận một phần.
[11]. Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Về tội danh:
Tuyên bố bị cáo Mã Văn Đ và bị cáo Nguyễn Hoàng A phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Bị cáo Tô Thành D phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
2. Về hình phạt - Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 50 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng A 08 (tám) tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày 27/01/2023.
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 50 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Mã Văn Đ 07 (bảy) tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày 15/01/2023.
- Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38, 50, 58 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Tô Thành D 07 (bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 14 (mười bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (01/6/2023).
Tuyên giao bị cáo Tô Thành D cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách nếu bị cáo Tô Thành D cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Trường hợp bị cáo Tô Thành D vắng mặt hoặc thay đổi nơi cư trú, nơi làm việc thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự năm 2019.
3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A13, màu đen, sim số 0924.184.xxx.
Tuyên trả cho bị cáo Mã Văn Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A50 màu đen, sim số 0968.006.xxx.
Giao Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ, tỉnh Bình Phước tiếp tục xác minh làm rõ chiếc xe môtô, hiệu Honda, loại Wave S, màu đỏ đen bạc, số máy JC52E – 4303340, biển số: 93P1-xxx.xx để xử lý theo quy định pháp luật.
(Số vật chứng trên đã được chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0002119, Quyển số 0043, ký hiệu D47/2017 ngày 15/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ).
4. Về án phí hình sự sơ thẩm:
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Bị cáo Mã Văn Đ, bị cáo Nguyễn Hoàng A và bị cáo Tô Thành D mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
5. Quyền kháng cáo:
Các bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận: - TAND tỉnh Bình Phước; - VKSND tp.Đồng Xoài; - VKSND tỉnh Bình Phước; - Chi cục THADS tp.Đồng Xoài; - Sở Tư pháp tỉnh Bình Phước. - CA tp.Đồng Xoài; - Phòng PV 06 Công an tỉnh BP; - Người tham gia tố tụng; - Lưu HS-VP. |
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
(Đã ký)
Võ Chất |
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!