Bản án số 69/2023/HS-ST ngày 26/12/2023 của TAND huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang về tội cướp tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 69/2023/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 69/2023/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 69/2023/HS-ST ngày 26/12/2023 của TAND huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang về tội cướp tài sản |
---|---|
Tội danh: | 133.Tội cướp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Chợ Gạo (TAND tỉnh Tiền Giang) |
Số hiệu: | 69/2023/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/12/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 69/2023/HS-ST NGÀY 26/12/2023 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 70/2023/TLST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2023/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:
Võ Thanh Th, sinh ngày 23/01/2005, tại Tiền Giang, số CCCD 082X016435;
Nơi cư trú: Số X, Tổ 17, ấp Tân Tỉnh A, xã Tân Mỹ Ch, thành phố Mỹ Th, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hoá (học vấn): 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Thanh G sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị Ngọc D sinh năm 1975; bị cáo chưa có vợ con; tiền án: không; tiền sự: không. Bị cáo tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
+ Người bào chữa cho bị cáo Võ Thanh Th :
Bà Trần Thị Ngọc G là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Tiền Giang. (có mặt)
- Bị hại:
Chị Nguyễn Thị Minh Kh, sinh năm 1986; (vắng mặt) Nơi cư trú: ấp Thạnh L, xã Long Bình Đ, huyện Chợ G, tỉnh Tiền Giang.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :
1/ Trần Công Ph, sinh năm 1995; (vắng mặt) Nơi cư trú: ấp Điền M, xã Long Bình Đ, huyện Chợ G, tỉnh Tiền Giang.
2/ Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1975; (có mặt) Nơi cư trú: Số X, Tổ Y, ấp Tân Tỉnh A, xã Tân Mỹ Ch, thành phố Mỹ Th, tỉnh Tiền Giang.
- Người làm chứng:
1/ Võ Thanh Ph, sinh năm 1998; (vắng mặt) Nơi cư trú: ấp Tân Tỉnh A, xã Tân Mỹ Ch, thành phố Mỹ Th, tỉnh Tiền Giang.
2/ Võ Trí T, sinh năm 2006; (vắng mặt) Nơi cư trú: ấp Tân Tỉnh A, xã Tân Mỹ Ch, thành phố Mỹ Th, tỉnh Tiền Giang.
3/ Nguyễn Quốc C, sinh năm 1998; (vắng mặt) Nơi cư trú: ấp Điền M, xã Long Bình Đ, huyện Chợ G, tỉnh Tiền Giang.
4/ Phạm Thị B, sinh năm 1960; (vắng mặt) Nơi cư trú: ấpThạnh L, xã Long Bình Đ, huyện Chợ G, tỉnh Tiền Giang.
5/ Huỳnh Văn O, sinh năm 1959; (vắng mặt) Nơi cư trú: ấpThạnh L, xã Long Bình Đ, huyện Chợ G, tỉnh Tiền Giang.
6/ Nguyễn Nhật Tr, sinh năm 1985; (vắng mặt) Nơi cư trú: ấpThạnh L, xã Long Bình Đ, huyện Chợ G, tỉnh Tiền Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 28/5/2022 bị cáo được anh tên Võ Thanh Ph điện thoại xuống karaoke Sao Đêm thuộc xã Tân Thuận Bình, huyện Chợ Gạo để uống rượu. Bị cáo điều khiển xe SH màu sơn đỏ, biển số 63B9-Y.20 chở theo Võ Trí T đi cùng, khi đi ngang qua nhà bà Phạm Thị B ngụ ấp Thạnh Lợi, xã Long Bình Điền huyện Chợ Gạo (là mẹ của Huỳnh Trung Tr có thiếu nợ bị cáo) thì thấy còn sáng đền. Bị cáo tiếp tục điều khiển xe xuống Karaoke Sao Đêm gặp Ph và nói nhà của Tr còn sáng đèn nên để đi đến gặp Tr đòi tiền, khi đi bị cáo chở theo T đến nhà Tr thì trong nhà tắc đèn. Bị cáo nói kiếm Tr nhưng không ai trả lời cửa nhà đều đóng, bị cáo điện thoại kêu Ph chạy lên, Ph đang uống rượu với Nguyễn Quốc C ở quán Toàn Ten nên Ph kêu C đi công chuyện, Ph chở C bằng xe Vario màu đen biển số 63C1-Z.87 chạy xuống nhà Tr. Khi đến Ph thấy Th lấy 01 cục đá hoa cương bị bể, có dạng hình vuông có sẵn ở sân nhà đập 02 cái vào ổ khóa cửa gỗ hành lang nhà nhưng bị trượt xuống không hư ổ khóa, bị cáo đi ra phía sau nhà lấy 01 cái chảo loại chảo không dính đi lên phía trước hành lang đập vào cửa sổ bằng nhôm lộng kính 03, 04 cái làm bể kính, bị cáo lấy cục đá hoa cương ban đầu chọi 04 cái trúng vào cửa sổ hành lang làm khung cửa sổ bằng inox bị xuống bên trong, còn khung bao rớt ra ngoài bể kính. Bị cáo leo qua ô cửa sổ vào bên trong, Ph cũng vào theo, khi vào nhà bị cáo lấy 01 con dao bấm màu đen dài 23,9cm, cán dao dài 13,6cm, trên cán có hình con bò cạp, lưới dao cong, sắt nhọ dài 10,3cm của bị cáo đem theo sẵn và cầm dao trên tay vào tìm Tr bên trong nhà và các phòng ngủ. Chị Nguyễn Thị Minh Kh bật đèn trong nhà và có cầm điện thoại Samsung A11 màu xanh để quay phim chụp ảnh, bị cáo phát hiện nên xông lại giật lấy điện thoại, chị Kh định lấy lại điện thoại thì bị cáo cầm dao bấm giơ dao về phía chị Kh mũi dao hướng ra trước co tay thủ trước bụng, bị cáo thụt lùi lại để chị Kh không xông vào lấy điện thoại được. Lúc này anh Nguyễn Nhật Tr (chồng chị Kh) đi làm về đi từ cửa sau vào nhà khi thấy sự việc anh Tr có năn nỉ bị cáo cho lấy lại sim điện thoại, cha mẹ của chị Kh cũng năn nỉ để xin trả nợ và xin lại điện thoại, nên bị cáo có đưa lại điện thoại cho anh Tr lấy sim ra, sau khi lấy sim ra thì bị cáo tiếp tục giật lấy lại điện thoại, chị Kh xông vào định giật lại điện thoại thì bị cáo dùng chân phải đạp một cái trúng bụng chị Kh té ra. Lúc này thì Ph đứng sau lưng bị cáo, Ph cũng nhìn thấy Th lấy điện thoại của chị Kh còn C và T do thấy Th và Ph đập phá tài sản và leo vào nhà Tr sợ liên lụy nên đã bỏ về trước. C lấy xe Vario của Ph chở T về quán Toàn Ten tiếp tục uống rượu. Khi lấy được điện thoại của chị Kh bị cáo đem đến tiệm Phú Mobile tại ấp Điền Lợi, xã Long Bình Điền, huyện Chợ Gạo để bẻ khóa nhưng chưa đến lấy thì bị Công an phát hiện làm việc và thu giữ điện thoại.
Theo bản kết luận định giá tài sản số 19/KL-ĐGTS ngày 01/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chợ Gạo kết luận:
+ 01 (một) điện thoại di động cảm ứng hiệu Samsung Galaxy A11, màu xanh, dung lượng 32Gb, trị giá 2.152.000 đồng + 02 (hai) cánh cửa sổ lùa nhôm lộng kính, loại kính bông, kính dày 0,4 cm, kích thước mỗi cánh (0,8 x 1,16) m. Bị móp, gãy khung nhôm, phần kính bị bể hư hỏng hoàn toàn không khắc phục, sửa chữa sử dụng lại được, bị thiệt hại 595.000 đồng.
+ 01 (một) khung kim loại cửa sổ bằng inox ống tròn, chia khung ngang dọc, kích thước khung (1,59 x 1,19) m. Bị cong một đoạn ống inox kích thước dài 34,5 cm, hư hỏng một phần có thể khắc phục, sửa chữa sử dụng lại được, thiệt hại 163.000 đồng.
+ 01 (một) cửa loại cửa gỗ thao lao kích thước (1,4 x 2,4) m. Bị hư hỏng tại vị trí ổ khóa cửa vết lõm, xước trượt một vùng gỗ có kích thước (0,4 x 0,3) cm, hư hỏng một phần có thể khắc phục, sửa chữa sử dụng lại được, bị thiệt hại 1.170.000 đồng.
Tổng giá trị tài sản bị đập phá là 1.928.000 đồng.
Bản cáo trạng số 71/CT-VKSCG ngày 31/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang truy tố hành vi của bị cáo Võ Thanh Th đã phạm vào tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Võ Thanh Th phạm tội “Cướp tài sản” * Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; Điều 38; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 90; Điều 91; Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt:
Bị cáo Võ Thanh Th từ 03 năm– 04 năm tù.
* Trách nhiệm bồi thường dân sự: Bị hại đã nhận lại điện thoại Samsng A11 và yêu cầu bị cáo bồi thường 15.000.000 đồng. Bị cáo đồng ý bồi thường và đã bồi thường xong cho bị hại, chị Kh có đơn xin bãi nại cho bị cáo. Chị Kh không có ý kiến gì, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Người bào chữa cho bị cáo thống nhất về tội danh và điều luật áp dụng, mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát luận tội. Phân tích các tình tiết giảm nhẹ: bị cáo là người chưa thành niên; đã tự nguyện khắc phục, bồi thường xong thiệt hại; thành khẩn khai báo, ăn năn hối; có nhân thân tốt chưa tiền án tiền sự; bị hại có đơn xin bãi nại.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt thấp nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình và hòa nhập cộng đồng.
+ Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa bị cáo Võ Thanh Th đã khai nhận hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo đã truy tố đối với bị cáo. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người liên quan, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đã có cơ sở xác định: khoảng 20 giờ 45 phút ngày 28/5/2022 bị cáo Võ Thanh Th đi đến nhà bà Phạm Thị B ngụ ấp Thạnh Lợi, xã Long Bình Điền huyện Chợ Gạo và có hành vi sử dụng 01 con dao bấm bằng kim loại màu đen dài 23,9cm, cán dao dài 13,6cm nơi rộng nhất của cán 3,3 cm, lưỡi dao dài 10,3 cm, sắc nhọn là vũ khí thô sơ đe dọa chị Nguyễn Thị Minh Kh để lấy điện thoại di động cảm ứng hiệu Samsung A11 màu xanh có giá trị 2.152.000 đồng.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm”.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
....
d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác”.
Bị cáo sử dụng 01 con dao bấm bằng kim loại màu đen dài 23,9cm, cán dao dài 13,6cm nơi rộng nhất của cán 3,3 cm, lưỡi dao dài 10,3 cm, sắc nhọn là vũ khí thô sơ để đe dọa bị hại nhằm mục đích chiếm đoạt điện thoại di động của bị hại.
Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật sẽ bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc, nhưng bị cáo bất chấp pháp luật cố ý thực hiện tội phạm.
[2] Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản và sức khỏe của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội tại địa phương, gây hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân. Do đó cần có mức án thật nghiêm khắc để cải tạo giáo dục bị cáo. Tuy nhiên xét thấy khi thực hiện tội phạm bị cáo là người chưa thành niên; đã tự nguyện khắc phục, bồi thường xong thiệt hại; thành khẩn khai báo, ăn năn hối; có nhân thân tốt chưa tiền án tiền sự; bị hại có đơn xin bãi nại. Do có nhiều tình tiết giảm nhẹ xét cần áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề cũng đủ cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội.
[3] Lời luận tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã truy tố và hướng giải quyết về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Lời bào chữa cho bị cáo của Trợ giúp viên pháp lý là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chợ Gạo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[6] Về trách nhiệm dân sự:
- Chị Nguyễn Thị Minh Kh đã nhận lại 01 điện thoại di động hiệu Samsung A11; ngoài ra chị Kh yêu cầu bị cáo bồi thường 15.000.000 đồng, bị cáo đã bồi thường xong. Chị Kh không có ý kiến yêu cầu gì khác, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
[7] Về xử lý vật chứng: Các tài sản thu giữ Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trao trả cho các chủ sở hữu, không ai có ý kiến khiếu nại gì, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Cần tịch thu tiêu hủy: 01 (một) con dao bấm bằng kim loại màu đen dài 23,9 cm, cán dao dài 13,6 cm nơi rộng nhất của cán 3,3 cm trên cán dao có hình con bọ cạp màu bạc; lưỡi dao dài 10,3 cm, sắc nhọn nơi rộng nhất của lưỡi 3,3 cm.
[8] Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội.
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
* Tuyên bố bị cáo Võ Thanh Th phạm tội “Cướp tài sản”.
- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 90; Điều 91; Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt: Bị cáo Võ Thanh Th 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) con dao bấm bằng kim loại màu đen dài 23,9 cm, cán dao dài 13,6 cm nơi rộng nhất của cán 3,3 cm trên cán dao có hình con bọ cạp màu bạc; lưỡi dao dài 10,3 cm, sắc nhọn nơi rộng nhất của lưỡi 3,3 cm.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/12/2023)
+ Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
+ Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Bị cáo, người liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị hại, người liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!