Bản án số 68/2022/HSST ngày 17/08/2022 của TAND TX. Duy Tiên, tỉnh Hà Nam về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 68/2022/HSST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 68/2022/HSST
Tên Bản án: | Bản án số 68/2022/HSST ngày 17/08/2022 của TAND TX. Duy Tiên, tỉnh Hà Nam về tội tàng trữ trái phép chất ma túy |
---|---|
Tội danh: | 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TX. Duy Tiên (TAND tỉnh Hà Nam) |
Số hiệu: | 68/2022/HSST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 17/08/2022 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DUY TIÊN, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 68/2022/HSST NGÀY 17/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 17 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Duy Tiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 66/2022/HSST ngày 13 tháng 7 năm 2022, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2022/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2022 đối với:
- Bị cáo Nguyễn Thế N, sinh năm 1953; nơi cư trú: Thôn T, xã Y, thị xã D, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Tự do; trình độ học vấn: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Long M (đã chết) và bà Lê Thị S; vợ: Nguyễn Thị P, con: Có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1980, con nhỏ nhất sinh năm 1984; tiền án; tiền sự: Không; tạm giữ: từ ngày 21/5/2022, chuyển sang tạm giamtừ ngày 27/5/2022 đến nay; hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt.
- Người chứng kiến: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1956; ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1955, (đều vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 21/5/2022, tại đường liên thôn thuộc thôn T, xã Y, thị xã D, tỉnh Hà Nam, tổ công tác công an thị xã Duy Tiên phối hợp với công an xã Y tiến hành tuần tra, phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Thế N đang cất giấu trong lòng bàn tay trái 02 gói nhỏ, bên ngoài bọc giấy, loại giấy phong bì thư, kích thước mỗi gói khoảng (1,5x1,0)cm, bên trong mỗi gói đều chứa chất màu trắng dạng cục, bột, N khai là ma túy, loại Heroine.
Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang, gồm: Thu của tại túi quần bên phải của Nguyễn Thế N: 02 gói giấy, trong đó có 02 gói giấy, loại giấy phong bì thư, bên trong mỗi gói đều chứa chất màu trắng dạng cục, bột, được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; thu tại vị trí bắt giữ Nguyễn Thế N: 01 xe đạp, loại xe nam, không có nhãn mác, đã cũ rỉ. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Thế N, Cơ quan CSĐT Công an thị xã Duy Tiên không thu giữ các đồ vật, tài liệu gì.
Tại bản kết luận giám định số 240/KL-KTHS ngày 26/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,260g, loại Heroine.
Về nguồn gốc ma túy, Nguyễn Thế N khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 12 giờ 30 phút ngày 21/5/2022, N đạp xe từ nhà mình đến khu vực chùa M thuộc thôn M, xã Y, thị xã D, tỉnh Hà Nam để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, N mua của 01 người đàn ông khoảng 30 tuổi đi xe máy Dream, không xác định được họ tên tuổi, địa chỉ, biển số xe của người này 02 gói ma túy, loại Heroine, bên ngoài bọc bằng giấy của phong bì thư với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được 02 gói ma túy, N cầm ở lòng bàn tay trái và đạp xe đi về nhà để sử dụng. Khi đi về đến đoạn đường gần đến nhà mình thì bị tổ công tác Công an kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng có liên quan.
Cáo trạng số 66/CT-VKS- DT ngày 12/7/2022, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duy Tiên truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theoquy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Nguyễn Thế N mức án từ 18 đến 24 tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày 21/5/2022. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đưa ra quan điểm về xử lý vật chứng và án phí của vụ án.
Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt, ngoài ra không có tranh luận gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên:
Trong quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, HĐXX xác định các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về tội danh, tính chất mức độ tội phạm: Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. HĐXX có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 21/5/2022, tại đường liên thôn thuộc thôn T, xã Y, thị xã D, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Thế N đang có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói ma túy, có khối lượng 0,260g, loại Heroine để sử dụng thì bị tổ công tác Công an thị xã Duy Tiên và Công an xã Yên Nam, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ các vật chứng liên quan.
Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Thế N gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng xấu trật tự trị an tại địa phương. Hành vi đó đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”tội phạm, hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; không phải chịu tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[4] Về hình phạt: Xét hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng vì thế cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Do bị cáo là người không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[5] Về nguồn gốc ma túy: Bị cáo khai mua của một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ ở khu vực chùa M thôn M, xã Y, thị xã D nên không có cơ sở để xác minh, xử lý.
[6] Về xử lý vật chứng vụ án: Đối với 01 phong bì niêm phong có số 240/KTHS là mẫu vật hoàn trả sau giám định cần tịch thu cho tiêu hủy.Đối với 01 xe đạp đã cũ rỉ là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.
[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định [8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo theo quy định. Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
1. Về hình sự: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thế N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế N 18(Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/5/2022.
2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.Tịch thu cho tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong có số 240/PC09-MT. Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 xe đạp đã cũ rỉ.
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội bị cáo Nguyễn Thế N phải chịu 200.000 đồng.
Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!