Bản án số 62/2022/HS-ST ngày 23/12/2022 của TAND huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận về tội cưỡng đoạt tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 62/2022/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 62/2022/HS-ST ngày 23/12/2022 của TAND huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận về tội cưỡng đoạt tài sản
Tội danh: 135.Tội cưỡng đoạt tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Ninh Sơn (TAND tỉnh Ninh Thuận)
Số hiệu: 62/2022/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/12/2022
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN N
TỈNH NINH THUẬN
Bản án số: 62/2022/HS-ST
Ngày: 23 12 2022
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH THUẬN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Vũ Văn Cường
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Võ Thị Thúy Phượng
2. Ông Phạm Ngọc Minh
- Thư phiên tòa: Ông Trương Quen T Tòa án nhân n huyện N,
tỉnh Ninh Thuận.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận tham gia
phiên tòa: Ông Lê Muộn Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh
Thuận xét xử thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý s 55/2022/HSST ngày
28 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2022/QĐXXST-
HS ngày 08/12/2022 đối với bị cáo:
Hồ Nguyễn Phạm S (tên thường gọi khác: không), sinh năm 1999 tại Phú Yên;
Nơi trú: Khu phố x, phường Đ, thành phố P
, tỉnh
Ninh Thuận; nghề nghiệp: làm
thuê; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch:
Việt Nam; con ông Nguyễn Phạm S1 HThị R; anh, chị, em 01 người sinh
2009 (cùng cha khác me); vợ, con chưa có; tiền án: không có; tiền sự: không có; nhân
thân: Ngày 05/12/2013 bị Công an phường Đ, thành phố P xử phạt vi phạm hành
chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” hình thức Cảnh cáo. Ngày 01/5/2015 bị Công an
phường Đ, thành phố P xphạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản”
hình thức Cảnh cáo. Ngày 08/5/2015 bị Công an phường Đ, thành phố P xphạt vi
phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, hình thức Cảnh cáo. Ngày 12/7/2016
bị Công an thành phP xử phạt vi phạm hành chính số tiền 375.000 đồng về hành vi
“Sử dụng trái phép chất ma túy”, đã nộp tiền phạt. Ngày 03/11/2016 bị Công an thành
phố P xử phạt vi phạm hành chính số tiền 375.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái
phép chất ma túy”, đã nộp tiền phạt. Ngày 05/12/2016, bị Công an thành phố P xử
phạt vi phạm hành chính số tiền 375.000 đồng về hành vi Sử dụng trái phép chất ma
túy”, đã nộp tiền phạt. Ngày 05/7/2017, bị Công an thành phố P xử phạt vi phạm hành
chính số tiền 375.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, đã nộp tiền
phạt. Ngày 28/8/2020, bị Ủy ban nhân dân phường Đ ra Quyết định áp dụng biện
2
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đến ngày 28/11/2020 chấp hành xong. Bị cáo
bị bắt tạm gingày 02/10/2022 chuyển tạm giam ngày 05/10/2022, hiện đang bị tạm
giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N. (có mặt tại phiên tòa)
Người bị hại: Anh Võ Phi V, sinh 1976 và chị Nguyễn Thị Lệ T, sinh 1980. Trú
tại: Thôn P, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án
được tóm tắt như sau: Nguyễn Thị Kim Y quan hệ bạn cho chị Nguyễn Th
Lệ T vay số tiền 20.000.000 đồng từ tháng 7/2021, lâu ngày không trả. Y đã nhiều lần
đòi tiền hăm dọa sẽ “siết nợ” bằng hình thức giữ xe máy của chị T nhưng T không
trả tiền mà còn lời nói thái độ thách thức. Khoảng 10 giờ ngày 02/12/2021, Y
nói với Phan Thùy Yến M là con gái của Y rủ nhóm bạn của M gồm: Nguyễn Đỗ
Quốc H, Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Văn T, Trần Văn V, Hồ Nguyễn Phạm S Hồ
Quang T cùng trú tại thành phố Phan Rang - Tháp Chàm đến nhà chị T để đòi nợ thì
cả nhóm cùng đồng ý. Trước khi đi, Y nói với nhóm bạn của M “lên đó không
đòi được tiền thì gặp đâu siết xe đó” với mục đích giữ tài sản của chị T nhằm
buộc chị T phải trả nợ cho Y thì cả nhóm đồng ý. c này chị Lâm Thị Thu T1
em Phan Thị Kiều T2 đang uống cà phê ở quán Yến M, nghe Y đi xiết nợ nên hiếu kỳ
đi theo xem. Lúc đến nhà chị T thì nhóm của Y chỉ gặp em Hoàng Nhật B con
T và ông Phi V chồng của chị T nhà nên Y hỏi em B nhưng em B nói
không biết chị T đâu. H cho rằng B nói chuyện hỗn láo nên H dùng tay nắm cổ áo
của B Đ dùng tay đánh B thì được Y M ngăn lại. B chạy vào nhà thì Y nói với
anh V: Em lấy chiếc xe về, anh nói T đem tiền xuống trả tem trả lại xe” rồi Y nói
với nhóm của mình: “Tụi con dắt chiếc xe này về cho cô, khi nào đem tiền xuống
trả thì trả xe cho chỉ vào chiếc mô hiệu Vario, màu xám bạc, biển số 85D1-
653.04 của chị T đang dựng tại sân nhà. Anh Phi V thấy nhóm bên Y đông người,
hành vi hung hăng, hơn nữa Anh V tật chân sợ xảy ra đánh nhau nên không
dám ngăn cản nhóm Y lấy xe. Lúc này em B đến xe mô tô lấy điều khiển của xe mô tô
này nhằm không cho nhóm Y lấy xe nhưng Nguyễn Thành Đ đến dắt chiếc xe mô
do Y chỉ, Nguyễn Văn T đẩy xe ra cổng. Do xe không có chìa khóa nên Đ đã ngồi trên
xe mô tô hiệu Vario để cho T dùng xe mô tô khác đẩy xe về đến nhà của Y. H (Bin) đi
sau xe Đ T để xem trục trặc đhỗ trợ việc đẩy xe. Khi biết sviệc chị T đã
đến cơ quan Công an xã P để trình báo. Chiếc xe mô tô hiệu Vario, màu xám bạc, biển
số 85D1-653.04 đã được Y giao nộp cho Cơ quan điều tra. Tại cơ quan điều tra Y, M,
H, Đ, T, V T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Riêng Hồ Nguyễn
Phạm S sau khi tham gia cưỡng đoạt tài sản cùng với nhóm của Y thì bỏ trốn khỏi địa
3
phương, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định truy nã số 06 ngày 06/6/2022 đối
với S, đến ngày 02/10/2022 bắt được Hồ Nguyễn Phạm S theo lệnh truy nã.
Ti Bn kết luận định giá số 52/KLĐGTS-PTCKH, ngày 24/12/2021 ca Hi
đồng định giá tài sản trong t tng huyn N kết lun: Ti thời điểm chiếm đoạt xe
tô hiệu Vario bin s 85D1- 653.04 ca v chng anh V, có giá trị 42.500.000 đồng.
Cáo trạng số 57/CT-VKS-HS ngày 28/10/2022 của Viện kiểm sát huyện N, tỉnh
Ninh Thuận truy tố bị cáo Hồ Nguyễn Phạm S về tội Cưỡng đoạt tài sảntheo quy
định tại khoản 1 Điều 170 BLHS.
Tại quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo S đã khai nhận toàn bộ hành
vi phạm tội của mình như trên.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định truy
tố bị cáo S về tội “Cưỡng đoạt tài sảnvà đề nghị Hội đồng xét xử.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 170; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Hồ Nguyễn Phạm S từ 12 tháng đến 15 tháng tù.
Hành vi của Hồ Quang T: Qua điều tra xác định tại thời điểm thực hiện hành vi
trong vụ án, Hồ Quang T mới 15 tuổi 09 ngày. Hành vi của Hồ Quang T không cấu
thành tội phạm. Công an huyện N đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối
với T.
Đối với hành vi của Nguyễn Thị Kim Y, Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Văn T,
Phan Thùy Yến M, Nguyễn Đỗ Quốc H, Trần Văn V cùng với xử vật chứng và các
vấn đề khác đã được giải quyết tại Bản án số 38/2022, ngày 26/7/2022 của Tòa án
nhân dân huyện N.
Bcáo đồng ý với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát tại phiên tòa, không
tranh luận gì. Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án: Bcáo nhận
thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố
tụng của quan điều tra công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát huyện N,
Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình
tự, thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra tại phiên tòa bị
cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết
định của quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết
định tố tụng của quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều
hợp pháp.
4
[2] Hành vi của bị o: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với
lời khai tại quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng
và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra có tại hồ sơ vụ
án, phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố, nên đủ cơ sở kết luận: Xuất phát từ
việc chị Nguyễn Thị Lệ T vợ của anh Võ Phi V có nợ tiền của Nguyễn Thị Kim Y đòi
nhiều lần lâu không trả nên khoảng 10 giờ ngày 02/12/2021, Y rủ Đ, V, H, M, T, S
đến nhà chị T để xiết xe, thực hiện hành vi chiếm đoạt 01 xe mô hiệu Vario biển số
85D1-653.04, của vợ chồng anh V, chị T trị giá 42.500.000 đồng để nhằm buộc vợ
chồng anh V, chị T trả nợ cho Y.
Hành vi nêu trên của Hồ Nguyễn Phạm S đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cưỡng
đoạt tài sản”, tội phạm hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình
sự. Bị cáo S người đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức
hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo cùng
với đồng phạm khác đã cưỡng đoạt của vợ chồng chị T, anh V 01 xe mô Vario tr
giá 42.500.000 đồng. vậy, quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện N
truy tố bị o về tội “Cưỡng đoạt tài sảntheo quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật
hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo: Khắc phục hậu quả giao
nộp lại tài sản chiếm đoạt (xe Vario 85D1-653.04) cho người bị hại; trong quá trình
điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi của mình; t
nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo một phần lỗi của người bhại,
xuất phát từ việc nợ tiền bị cáo Y đòi lâu không trả nên xiết xe của bị hại để bị hại trả
tiền, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, 2
Điều 51 Bộ luật hình sự. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự bcáo S không
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng thể hiện người nhân thân xấu, cụ
thể: Ngày 05/12/2013 bị Công an phường Đ, thành phố P xử phạt vi phạm hành chính
về hành vi “Trộm cắp tài sản” hình thức Cảnh cáo. Ngày 01/5/2015 bị Công an
phường Đ, thành phố P xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”
hình thức Cảnh cáo. Ngày 08/5/2015 bị Công an phường Đ, thành phố P xử phạt vi
phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, hình thức Cảnh cáo. Ngày 12/7/2016
bị Công an thành phố P xử phạt vi phạm hành chính số tiền 375.000 đồng về hành vi
“Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 03/11/2016 bị Công an thành phố P xử phạt vi
phạm hành chính số tiền 375.000 đồng về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy”.
Ngày 05/12/2016, bị Công an thành phố P xử phạt vi phạm hành chính số tiền 375.000
đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 05/7/2017, bị Công an thành
phố P xử phạt vi phạm hành chính số tiền 375.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép
chất ma túy. Ngày 28/8/2020, bị Ủy ban nhân dân phường Đ ra Quyết định áp dụng
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đến ngày 28/11/2020.
Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho hội, không những đã trực tiếp xâm
phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh
hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. vậy cần thiết áp dụng một
hình phạt tương xứng cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo
dục các bị cáo trở thành công dân tốt.
5
[3] Hành vi của Hồ Quang T tại thời điểm thực hiện nh vi, T mới 15 tuổi 09
ngày, nên hành vi của Hồ Quang T không cấu thành tội phạm. Công an huyện N đã ra
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là có căn cứ.
[4] Đối với hành vi của Nguyễn Thị Kim Y, Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Văn T,
Phan Thùy Yến M, Nguyễn Đỗ Quốc H, Trần Văn V cùng với xử vật chứng và các
vấn đề khác đã được giải quyết tại Bản án số 38/2022, ngày 26/7/2022 của Tòa án
nhân dân huyện N.
[5] Về án phí: Bcáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm quy định tại khoản 2 Điều
136 Bộ luật tố tụng hình sự điểm a khoản 1 Điều 23 Ngh quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 170; Điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
1. Tuyên bố bị cáo Hồ Nguyễn Phạm S phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”.
Xử phạt bị cáo Hồ Nguyễn Phạm S 12 (Mười hai) tháng , thời hạn chấp hành
hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ (ngày 02/10/2022).
2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụngnh sự điểm a khoản
1 Điều 23 Nghquyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản sử dụng án phí lệ
phí Tòa án. Buộc bị cáo Hồ Nguyễn Phạm S phải chịu 200.000
đ
(Hai trăm ngàn đồng)
án phí hình sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể
từ ngày tuyên án sơ thẩm (23/12/2022). Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong
hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Văn Cường
6
7
8
9
Tải về
Bản án số 62/2022/HS-ST Bản án số 62/2022/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất