Bản án số 589/2023 ngày 04/12/2023 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 589/2023
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 589/2023
| Tên Bản án: | Bản án số 589/2023 ngày 04/12/2023 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
| Số hiệu: | 589/2023 |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 04/12/2023 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Vụ án dân sự |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 589 /2023/DSPT
Ngày 04/12/2023
V/v: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
và hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Võ Hồng Sơn;
Bà Lê Thị Thúy Bình;
Bà Phan Thị V H2.
Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Bích Ngọc - Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân cấp cao tại Hà Nội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa:
Ông Đỗ Văn Hữu - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 04 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
xét xử công khai vụ án Dân sự thụ lý số thụ lý số 182/2023/TLPT-DS ngày 08
tháng 5 năm 2023 V/v “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”, do có kháng cáo của bị đơn đối với Bản án dân sự sơ
thẩm số 20/2022/DS-ST ngày 22 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh
Hưng Yên.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13361/2023/QĐPT-DS ngày 20
tháng 11 năm 2023; giữa các đương sự:
* Nguyên đơn:
Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1962 (vắng mặt; có đơn đề nghị xử vắng mặt).
Địa chỉ: Đội 13, thôn Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố HY, tỉnh
Hưng Yên.
- Đại diện theo ủy quyền của ông B: Anh Nguyễn Khắc A, sinh năm 1977;
trú tại: Thôn An Chiểu 2, xã Liên PH2, thành phố HY, tỉnh Hưng Yên (có mặt).
* Bị đơn:
- Bà Bùi Thị T1, sinh năm 1976 (có mặt);
- Chị Đỗ Thị Thảo H1, sinh năm 1999 (vắng mặt; có đơn đề nghị xử vắng mặt);
Địa chỉ: Đội 12, thôn Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố HY, tỉnh
Hưng Yên.
2
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Luật sư Nguyễn Thị Thu
H2 - Công ty luật TNHH Toàn Quốc, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội (có mặt).
*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị H3, sinh năm 1957 chết ngày 21/4/2023 (vợ của ông B);
2. Chị Nguyễn Thị X, sinh năm 1982 (vắng mặt);
3. Chị Nguyễn Thị T2, sinh năm 1997 (vắng mặt);
Địa chỉ: Đội 13, thôn Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố HY, tỉnh
Hưng Yên.
4. Chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1984 (vắng mặt);
Địa chỉ: Saga Ken Kabatsu Shi 1 -3288 -1 Japan (Nhật Bản).
5. Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1989 (vắng mặt);
Địa chỉ: Đội 10, An Chiểu 1, Liên PH2, thành phố HY, tỉnh Hưng Yên.
Đại diện theo ủy quyền của chị V và chị L: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm
1962; Địa chỉ: Đội 13, thôn Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố HY, tỉnh
Hưng Yên (vắng mặt; có đơn đề nghị xử vắng mặt).
6. Ông Đỗ Văn T3, sinh năm 1974 (vắng mặt);
Địa chỉ: Đội 12, thôn Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố HY, tỉnh
Hưng Yên.
7. Văn phòng công chứng AD;
Địa chỉ: Số 480 Nguyễn Văn Linh, phường Hiến Nam, thành phố HY, tỉnh
Hưng Yên. Trưởng văn phòng: Ông An Văn Dũng (vắng mặt).
Người làm chứng:
- Ông Phạm Văn T4, sinh năm 1959; trú tại: Số 27 Linh Đài, Hồng Châu,
thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên (có mặt);
- Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1971; trú tại: Đội 13, thôn Xích Đằng, phường
Lam Sơn, thành phố HY, tỉnh Hưng Yên (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án Nguyên đơn là
ông Nguyễn Văn B trình bày:
Ông và bà Bùi Thị T1 là người cùng thôn với nhau. Năm 2015, ông có vay
tiền của vợ chồng bà T1, ông T3 để cho con gái là Nguyễn Thị V đi xuất khẩu lao
động tại Nhật Bản. Việc vay tiền diễn ra làm 3 lần:
- Lần 1 vào ngày 06/6/2015, vay 100.000.000đ;
- Lần 2 vào ngày 08/8/2015 vay 50.000.000đ;
- Lần 3 vào ngày 19/8/2015 vay 70.000.000đ.
Tổng 3 lần vay là 220.000.000đ, đều có viết giấy vay và ông ký nhận. Sau
đó, bà T1 đề nghị viết thành giấy vay tiền cụ thể đề ngày 06/6/2015, thời hạn vay là
3
3 năm, lãi suất 1,2%/ tháng, tháng nào trả lãi tháng đấy. Ngoài ra, ông còn làm 01
hợp đồng chuyển nhượng 400m
2
đất cho bà T1, ông T3 để làm tin. Hợp đồng chỉ có
ông và các con ông là chị Nguyễn Thị X, Nguyễn Thị V, Nguyễn Thị L và Nguyễn
Thị T2 ký, còn chữ ký của vợ ông là ông tự ký thay. Các bên thỏa thuận nếu hết
thời hạn 3 năm ông không trả hết số nợ 220.000.000đ thì bà T1, ông T3 sẽ sang tên
chính chủ 400m
2
đất trên. Đến nay ông mới trả lãi, chưa trả gốc.
Ngày 08/12/2015, ông lại vay của bà T1, ông T3 01 cây vàng, có viết giấy
vay, thỏa thuận trả bằng vàng và lãi suất 300.000đ/ tháng, tháng nào trả lãi tháng
đấy. Thời điểm vay giá vàng là 29.000.000đ/1 cây. Đến nay ông mới trả lãi, chưa
trả gốc.
Ngày 09/5/2018 (không nhớ ngày âm hay dương), ông vay của bà T1, ông
T3 01 cây vàng, trị giá vàng khi vay là 33.000.000đ/1 cây; có viết giấy vay nhưng
không thỏa thuận lãi suất. Đến nay ông chưa trả được số nợ này.
Ngày 21/6/2018 (âm lịch) tức ngày 02/8/2018 dương lịch, ông vay của bà
T1, ông T3 số tiền 130.000.000đ, có viết giấy vay, không ghi lãi suất nhưng thỏa
thuận bằng miệng lãi suất là 1,2%/ tháng. Bà T1 bắt ông tính cả lãi của 2 lần vay
vàng lần trước và lãi của số tiền vay 220.000.000đ trong thời hạn 2 tháng là 7 triệu
đồng để nhập vào số tiền vay gốc. Nên số tiền chốt trong giấy nhận tiền là
137.000.000đ (130 triệu tiền gốc và 7 triệu tiền lãi). Đến nay ông chưa trả được số
nợ này.
Ngày 22/6/2018 âm lịch, ông vay của bà T1, ông T3 số tiền 20.000.000đ, có
viết giấy vay, không ghi lãi suất nhưng thỏa thuận bằng miệng lãi suất là 1,2%/
tháng.
Ngày 26/6/2018 âm lịch tức ngày 07/8/2018, ông vay của bà T1, ông T3 số
tiền 40.000.000đ có viết giấy vay, không ghi lãi suất nhưng thỏa thuận bằng miệng
lãi suất là 1,2%/ tháng. Tính đến ngày 07/8/2018, tổng số tiền của tất cả các khoản
ông đã vay của bà T1 chốt cả gốc và lãi là 500.000.000đ và được ghi vào sổ chốt
nợ của bà T1.
Ngày 29/6/2018 âm lịch (dương lịch là ngày 10/8/2018), ông vay của bà T1,
ông T3 số tiền 100.000.000đ có viết giấy vay nhận tiền bán đất, không ghi lãi suất
nhưng thỏa thuận bằng miệng lãi suất là 1,2%/ tháng. Mặc dù ông viết và ký vào
giấy vay tiền đã nhận đủ tiền bán đất nhưng thực chất là vay tiền chứ không bán đất
cho bà T1, ông T3. Tính đến ngày này, ông đã vay của bà T1, ông T3 tổng số tiền
600.000.000đ tính cả gốc và lãi. Đến nay ông chưa trả được số nợ này.
Ngày 08/7/2018 âm lịch, ông có viết giấy vay bà T1, ông T3 100.000.000đ.
Thực chất 100.000.000đ là tiền lãi của 600.000.000đ nói trên chứ ông không vay và
cầm tiền mặt thật của bà T1. Ông có ghi là “anh B phải trả lãi em T1 T3 từ tháng
10/2019 âm lịch” chứ không phải là “anh B phải trả đất em T1, T3 từ tháng
10/2019 âm lịch” như tài liệu bà T1 cung cấp, bà T1 đã tự ý sửa chữ “lãi” thành
“đất”. Tính đến ngày 08/7/2018 âm lịch, ông đã vay của bà T1, ông T3 tổng số tiền
600.000.000đ tính cả gốc và lãi. Đến nay ông chưa trả được số nợ này.
Với các khoản vay nợ trên, ông đều trả lãi hàng tháng theo thỏa thuận giữa
ông và vợ chồng bà T1. Từ ngày 08/7/2018 âm lịch đến nay thì ông chưa trả được
4
cả lãi và gốc.
Đến hạn 3 năm phải trả hết nợ, ông chưa trả được nợ cho bà T1, ông T3 nên
bà T1 bảo ông cứ làm hợp đồng chuyển nhượng nhà và đất để làm tin. Ngày
24/8/2018, các bên làm 02 hợp đồng chuyển nhượng nhà và đất tại thửa đất số 38,
tờ bản đồ 38, diện tích 923,8m
2
, địa chỉ: khu phố Xích Đằng, phường Lam Sơn,
thành phố HY, tỉnh Hưng Yên. Vợ chồng ông ký, chứ không đọc hợp đồng. Bản
chất việc mua bán chuyển nhượng đất giữa vợ chồng ông và mẹ con bà T1 là không
có thật. Ông xác định nợ gốc và lãi số tiền ông nợ bà T1 đến ngày 08/7/2018 (âm
lịch) là 600.000.000đ. Nay ông nhất trí xác định khoản tiền 600.000.000đ này là nợ
gốc và không yêu cầu phải xem xét lại các khoản tiền lãi ông đã trả cũng như khoản
tiền lãi do bà T1 tính và nhập vào nợ gốc. Ông đồng ý trả cho bà T1 nợ gốc
600.000.000đ và lãi của số tiền 600.000.000đ với mức lãi suất ông và bà T1 đã thỏa
thuận là 1,2%/ tháng kể từ ngày 29/6/2018 âm lịch tức ngày 10/8/2018 dương lịch
đến ngày Tòa án xét xử sơ thẩm. Đồng thời yêu cầu hủy hai hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất số 2281 và 2282 ngày 24/8/2018 giữa vợ chồng ông và
bà T1, chị H1; buộc bà T1 trả lại cho ông Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
(GCNQSDĐ) đối với thửa đất trên.
Đối với chi phí trích đo thửa đất theo phiếu thu ngày 14/8/2018 hết
3.870.000đ, ông đồng ý nhận trả cho bà T1.
* Bị đơn là bà Bùi Thị T1 trình bày:
Năm 2015, vợ chồng ông B có vay tiền của vợ chồng bà để cho con đi nước
ngoài. Cụ thể: Lần 1 vào ngày 06/6/2015 cho vay 100.000.000đ; lần 2 vào ngày
08/8/2015 cho vay 50.000.000đ; lần 3 cho vay 70.000.000đ, đều viết vào giấy.
Tổng 3 lần vay là 220.000.000đ có viết giấy vay tiền vào ngày 06/6/2015, thời hạn
vay là 3 năm, lãi suất 1,2%/ tháng. Thỏa thuận nếu sau 3 năm ông B không trả được
nợ thì phải trả 400m
2
đất. Đồng thời hai bên có viết tay giấy chuyển nhượng đất
diện tích 400m
2
đất thổ cư tại Đội 13, thôn Xích Đằng, phường Lam Sơn, có xác
nhận của UBND phường Lam Sơn. Đến ngày 08/12/2015, ông B đã trả lãi của số
tiền 220.000.000đ, còn gốc chưa trả được.
Cùng ngày 08/12/2015, bà tiếp tục cho ông B vay 01 cây vàng 9999, có viết
giấy vay nợ. Vợ chồng ông B đều ký và thỏa thuận trả lãi 300.000đ/ tháng, không
ghi thời hạn vay. Ông B đã trả lãi được 01 năm. Đến nay chưa trả được gốc và lãi
tiếp.
Hết thời hạn 3 năm ông B vay của bà số tiền 220.000.000đ và 01 cây vàng,
vợ chồng ông B không trả được nợ gốc và lãi. Do vợ chồng ông B còn vay tiền
người khác cũng không có khả năng trả nợ cho họ nên họ đã cầm sổ đỏ của vợ
chồng ông B làm tin. Vợ chồng bà còn vay mượn thêm tiền để đưa cho vợ chồng
ông B. Tổng cộng bà cho vợ chồng ông B vay tính cả vàng và tiền mặt là
700.000.000đ, có viết giấy và ông B có ký nhận.
Ngày 24/8/2018, vợ chồng ông B với bà và chị H1 con gái bà đã làm hai hợp
đồng chuyển nhượng hơn 923,8m
2
đất và nhà ở trên đất thuộc thửa số 38 tại Văn
phòng công chứng AD(Hợp đồng số 2281 và 2282).
Hợp đồng số 2281 giữa bên chuyển nhượng là vợ chồng ông Nguyễn Văn B
5
và bên nhận chuyển nhượng là bà Bùi Thị T1 có nội dung: Vợ chồng ông B chuyển
nhượng cho bà T1 2 phần đất được tách từ thửa số 38, trong đó phần thứ nhất diện
tích 667,4m
2
; phần thứ hai diện tích 97,2m
2
. Giá tiền chuyển nhượng là
500.000.000đ.
Hợp đồng số 2282 giữa bên chuyển nhượng là vợ chồng ông Nguyễn Văn B
và bên nhận chuyển nhượng là chị Đỗ Thị Thảo H1 có nội dung: Vợ chồng ông B
chuyển nhượng cho chị H1 1 phần đất được tách từ thửa số 38 diện tích 159,2m
2
.
Giá tiền chuyển nhượng là 200.000.000đ.
Tại lời khai trước đây (BL 44-46), bà cùng quan điểm với ông B về những
lần bà cho ông B vay tiền từ 09/5/2018 đến 08/7/2019. Tuy nhiên sau này, bà xác
định các ngày từ 09/5/2018 đến 08/7/2018, bà không cho ông B vay bất cứ khoản
tiền nào như ông B đã trình bày, mà đấy đều là số tiền bà trả tiền đất cho vợ chồng
ông B theo Hợp đồng đã chuyển nhượng vì không có thỏa thuận về lãi. Bà chỉ cho
vợ chồng ông B vay 220.000.000đ tiền mặt, 01 cây vàng vào năm 2015.
Bà có quan điểm không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông B. Nếu vợ
chồng ông B muốn lấy lại đất thì bà đồng ý để lại cho ông B phần đất theo Hợp
đồng đã ký với chị Đỗ Thị Thảo H1, đồng thời trả cho bà một phần sân để bà làm
ngõ đi vào phần đất phía trong cho rộng và trả cho bà số tiền 700.000.000đ.
Ngoài ra, bà T1 có yêu cầu phản tố đề nghị hủy hợp đồng chuyển nhượng đất
nông nghiệp 03 đề ngày 10/6/2009 giữa vợ chồng bà T1 với gia đình ông B đối với
diện tích 163m
2
đất nông nghiệp giáp thủy văn, phía tây giáp đất ông Nguyễn Văn
C, không ghi rõ thuộc thửa đất nào, tờ bản đồ bao nhiêu (theo ông B khai thì 163m
2
đất nông nghiệp này là một phần của thửa số 11/13, tờ bản đồ số 12, GCNQSDĐ số
1339 ngày 10/3/1996) và yêu cầu ông B trả lại cho bà số tiền 68.000.000đ tiền gốc
và tiền lãi theo quy định của pháp luật tính từ ngày 10/6/2009. Tuy nhiên ngày
19/5/2022, bà đã tự nguyện rút yêu cầu phản tố, ông B cũng đồng ý với quan điểm
tự nguyện rút yêu cầu phản tố của bà T1.
* Bị đơn chị Đỗ Thị Thảo H1 trình bày:
Chị là con gái bà T1, ông T3. Chị không biết việc mua bán đất giữa gia đình
ông B và mẹ chị. Chị chỉ được mẹ chị nhờ đứng tên trong hợp đồng chuyển nhượng
được ký kết tại văn phòng công chứng. Nay ông B có đơn khởi kiện chị và bà T1,
chị đề nghị Tòa án làm việc với mẹ chị và giải quyết theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
- Bà Nguyễn Thị H3: Bà là vợ ông B. Việc ông B vay tiền của bà T1, ông T3
như nào bà không biết gì vì ông B không nói với bà. Bà không biết ông B vay bao
nhiêu lần và bao nhiêu tiền. Bà chưa lần nào vào nhà bà T1, ông T3 để vay tiền và
vàng. Có một lần ông B chở bà đến văn phòng công chứng để bảo bà ký vào giấy gì
đó, bà cũng không đọc đó là giấy gì và cũng không có ai đọc cho bà biết. Nay ông
B khởi kiện bà T1, chị H1 về nội dung hủy hợp đồng chuyển nhượng nhà và đất, bà
đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông B.
- Ông Đỗ Văn T3: Ông là chồng bà T1. Ông có biết việc vợ chồng ông B
nhiều lần vay tiền của vợ chồng ông vì đều đến nhà ông để vay. Tiền, vàng mà bà
T1 đưa cho vợ chồng ông B vay là tài sản chung của vợ chồng ông. Các lần vợ
6
chồng ông B vay tiền, ông đều đồng ý cho vay, còn đứng lên giao dịch thỏa thuận
cụ thể số tiền vay, lãi suất như thế nào thì chỉ có bà T1 và ông B giao dịch với
nhau. Ông có biết việc bà T1 và chị H1 nhận chuyển nhượng đất và nhà ở của vợ
chồng ông B, bà H3, còn ông không tham gia ký kết hợp đồng chuyển nhượng đó.
- Chị Nguyễn Thị T2: Chị là con gái của ông B. Chị không biết việc chuyển
nhượng đất 03 giữa bố mẹ chị và bà T1. Chị cũng không biết có phải chị ký ở bên
dưới giấy chuyển nhượng đất 03 ngày 10/6/2009 hay không vì khi đó chị còn nhỏ.
Với yêu cầu hủy việc chuyển nhượng đất 03 của bà T1 thì chị có quan điểm để cho
bố mẹ chị quyết định.
- Văn phòng công chứng AD: Ngày 24/8/2018, Văn phòng Công chứng AD
có thực hiện làm thủ tục công chứng 2 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất số 2281 và 2282 giữa bên chuyển nhượng ông Nguyễn Văn B và bà Nguyễn
Thị H3 với bên nhận chuyển nhượng là bà Bùi Thị T1 (Hợp đồng 2281) và bà Đỗ
Thị Thảo H1 (Hợp đồng 2282). Các bên đã tự nguyện cung cấp đầy đủ các thông
tin cá nhân và tài liệu liên quan đến việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Bên
chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng đều tự nguyện ký kết hợp đồng và
thống nhất cam kết thực hiện thỏa thuận của hợp đồng. Văn phòng chứng kiến việc
ký kết thỏa thuận thực hiện hợp đồng của các bên. Văn phòng xác nhận đã thực
hiện công chứng cho các bên đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật và
cung cấp cho Tòa án bản sao các tài liệu, văn bản các đương sự đã cung cấp cho
Văn phòng công chứng AD để làm hợp đồng chuyển nhượng và bản sao Hợp đồng
chuyển nhượng số 2281 và 2282.
Xác minh nguồn gốc đất, UBND phường Lam Sơn cung cấp:
Ban đầu tại số đăng ký ruộng đất, sổ mục kê 290 năm 1984 -1986; diện tích
923,8m
2
đất của ông B bà H3 nằm tại thửa số 397, tờ bản đồ số 2 đăng ký tên cụ
Đào Thị Đ (bà nội ông B), diện tích 2.156m
2
, loại đất thổ cư. Biến động qua các
năm, thửa đất trên được tách ra làm 2 thửa, trong đó 01 thửa kê khai đăng ký tên
ông Nguyễn Văn B, diện tích 923,8m
2
. Ngày 31/5/2018, ông B được cấp
GCNQSDĐ với diện tích 923,8m
2
, thửa số 38, tờ bản đồ số 38 mang tên ông
Nguyễn Văn B và bà Phạm Thị H3. Đây là diện tích đất không có tranh chấp với ai.
Sau này, ông B, bà H3 đã tách diện tích này ra làm 03 mảnh đất với các diện tích
97,2m
2
; 667,4m
2
và 159,2m
2
và chuyển nhượng cho bà T1, chị H1 nhưng chưa
thông qua Ủy ban làm thủ tục sang tên.
Đối với việc chuyển nhượng đất nông nghiệp giữa ông Nguyễn Văn B và vợ
chồng ông Đỗ Văn T3, Bùi Thị T1 thì không thông qua bộ phận địa chính phường
nên địa phương không biết việc chuyển nhượng này, không xác định được các bên
chuyển nhượng thửa đất nào. Gia đình ông B và gia đình bà T1 cũng không ai kê
khai biến động quyền sử dụng đất nông nghiệp. Do vậy xác định giao dịch này nếu
có thì là không hợp lệ, không đảm bảo các quy định của pháp luật về chuyển
nhượng quyền sử dụng đất.
Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ và Biên bản định giá tài sản xác định:
+ Thửa đất có tranh chấp là thửa đất số 38, tờ bản đồ số 38 tại Đội 13, thôn
Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố HY; có diện tích 923,8m
2
. Các đương sự
thỏa thuận 923,8m
2
đất trị giá 1.108.000.000đ.
7
+ Tài sản trên đất bao gồm: 01 nhà 1,5 tầng; 01 nhà cấp 4 diện tích 14,5m
2
;
01 lán tôn diện tích 50,8m
2
, 01 sân gạch đỏ diện tích 73,2m
2
; 01 sân lát xi măng
diện tích 38,1m
2
; 01 bể đựng nước thể tích 10,4m
2
; 01 bếp cũ; 04 cây nhãn đường
kính 35cm; 01 cây mít đường kính 10cm; 01 cây sấu đường kính 25cm và một số
cây nhỏ. Các đương sự thỏa thuận toàn bộ tài sản này trị giá 92.000.000đ (trừ 01
bếp cũ và một số cây nhỏ trong vườn các đương sự tự nguyện đề nghị không định
giá).
* Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2022/DS-ST ngày 22 tháng 12 năm
2022, Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên đã quyết định:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, Điều
147, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 122, 124, 131,
463, 468 Bộ luật dân sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn B.
1. Buộc ông Nguyễn Văn B và bà Nguyễn Thị H3 phải liên đới trả cho vợ
chồng bà Bùi Thị T1, ông Đỗ Văn T3 số tiền 1.007.970.456đ.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật
dân sự năm 2015.
2. Hủy hai hợp đồng sau:
- Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 2281, quyển
số 03/2018 TP/CC - SCC/HĐGD, ngày 24/8/2018 giữa bên chuyển nhượng là vợ
chồng ông Nguyễn Văn B, bà Nguyễn Thị H3 và bên nhận chuyển nhượng là bà
Bùi Thị T1.
- Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số
công chứng 2282, quyển số 03/2018 TP/CC - SCC/HĐGD ngày 24/8/2018 giữa
bên chuyển nhượng là vợ chồng ông Nguyễn Văn B, bà Nguyễn Thị H3 và bên
nhận chuyển nhượng là chị Đỗ Thị Thảo H1.
3. Buộc bà Bùi Thị T1 phải trả cho vợ chồng ông B, bà H3 Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CG 547131, vào sổ cấp giấy số CH 00528, đối với thửa đất
thửa số 38, tờ bản đồ số 38, diện tích 923,8m
2
thuộc khu phố Xích Đằng, phường
Lam Sơn, thành phố HY, tỉnh Hưng Yên do UBND thành phố HY cấp ngày
31/5/2018 cho ông Nguyễn Văn B và bà Nguyễn Thị H3.
4. Không chấp nhận yêu cầu của bà Bùi Thị T1 về việc đề nghị công nhận và
buộc vợ chồng ông B bà H3 phải tiếp tục thực hiện hai hợp đồng sau:
- Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 2281, quyển
số 03/2018 TP/CC - SCC/HĐGD, ngày 24/8/2018 giữa bên chuyển nhượng là vợ
chồng ông Nguyễn Văn B, bà Nguyễn Thị H3 và bên nhận chuyển nhượng là bà
Bùi Thị T1.
8
- Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số
công chứng 2282, quyển số 03/2018 TP/CC - SCC/HĐGD ngày 24/8/2018 giữa
bên chuyển nhượng là vợ chồng ông Nguyễn Văn B, bà Nguyễn Thị H3 và bên
nhận chuyển nhượng là chị Đỗ Thị Thảo H1.
5. Đình chỉ yêu cầu phản tố của bà Bùi Thị T1 về việc đề nghị hủy hợp đồng
chuyển nhượng đất nông nghiệp 03 đề ngày 10/6/2009 giữa vợ chồng bà T1 với gia
đình ông B đối với diện tích 163m
2
đất nông nghiệp có vị trí giáp trạm thủy văn,
phía tây giáp đất ông Nguyễn Văn C.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí và
thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 28/12/2022, bị đơn bà Bùi Thị T1 có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Quan điểm của Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bà T1:
Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, nguyên đơn chỉ yêu cầu hủy hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, không có yêu cầu giải quyết hậu quả của
hợp đồng nhưng Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết cả hậu quả là vượt quá yêu cầu khởi
kiện; các bên đương sự có lời khai còn nhiều mâu thuẫn với nhau nhưng chưa được
đối chất; lời khai của các nhân chứng về việc bà T1 vay tiền của họ để mua đất,
cũng như có 2 chữ bị sửa trong hợp đồng từ chữ “Lãi” thành chữ “Đất” đều chưa
được làm rõ; giá đất được định giá nhưng không căn cứ vào quy định của UBND
tỉnh ban hành khung giá đất và trong vụ án này, bà T1 là người trả tiền trích đo
thửa đất. Với các vấn đề chưa được làm rõ nêu trên nhưng Tòa án cấp sơ thẩm vẫn
xét xử vụ án là vi phạm nghiêm trọng tố tụng, đề nghị hủy toàn bộ vụ án.
- Quan điểm của người đại diện theo ủy quyền của ông B:
Các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án là do chính các đương sự xuất
trình cho Tòa án và các đương sự hoàn toàn không có ai thắc mắc gì về các chứng
cứ do các bên đương sự xuất trình; bản chất của vụ án là bà T1 cho ông B vay tiền,
đến thời điểm ông B không trả được nợ thì bà T1 ép phải gán đất để trừ nợ; bà T1
là người cho ông B vay tiền để thực hiện việc làm GCNQSDĐ cho nhà ông B,
chính bà T1 là người đi làm thủ tục cấp GCNQSDĐ cho nhà ông B, mục đích là
sau khi làm xong GCNQSDĐ thì sẽ thế chấp để vay tiền ngân hàng. Tuy nhiên, do
không vay được tiền ngân hàng nên bà T1 là người vẫn giữ GCNQSDĐ của nhà
ông B. Giấy chốt nợ số tiền 700 triệu đồng là bao gồm 100 triệu đồng tiền lãi và
600 triệu đồng tiền vay gốc; sau khi ông B không trả được nợ cho bà T1 thì 02
người con rể của ông B có đến gặp bà T1 đề nghị được trả cho bà số tiền 1 tỷ đồng
nhưng bà T1 không đồng ý; nhân chứng trong vụ án như ông Tuấn, bà Mau khai bà
T1 có vay họ 15 triệu đồng để mua đất nhà ông B là lời khai vô lý; việc sửa chữ
“Lãi” thành chữ “Đất” trong giấy tờ là do ông B bị ép buộc khi không thanh toán
được tiền nợ cho bà T1; đối với giá đất là do các bên đương sự thống nhất thỏa
thuận phù hợp với giá thực tế nên được Tòa án chấp nhận. Do đó, đề nghị không
chấp nhận kháng cáo.
9
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có ý kiến đánh giá việc
tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng tại giai đoạn xét xử phúc
thẩm là đúng pháp luật; kháng cáo hợp lệ, trong thời hạn luật định nên được xem
xét theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung: Giữa các đương sự có sự vay mượn tiền với nhau là đúng, thể
hiện tại các giấy tờ vay mượn do chính các đương sự xuất trình và chính các đương
sự thừa nhận tại Tòa án. Tuy nhiên, khi đến hạn trả nợ thì ông B không có khả năng
thanh toán nên bị ép phải ký hợp đồng bán đất để trừ nợ, trong hợp đồng thể hiện rõ
việc khi bên nhận chuyển nhượng giao đủ tiền thì bên chuyển nhượng phải giao
nhà, đất nhưng bà T1 chưa bao giờ đến nhận đất hoặc yêu cầu ông B phải thực hiện
việc giao nhà, đất; đến nay, toàn bộ nhà, đất vẫn do gia đình ông B quản lý, sử
dụng. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là giả tạo để che đậy
giao dịch vay mượn tiền. Đối với vấn đề vay mượn tiền: Các bên đương sự đều
thừa nhận có vay mượn tiền nhưng bà T1 cho rằng ông B chưa trả gốc và lãi; ông B
cho rằng đã trả lãi sau đó được tính gộp vào tiền gốc nhưng không có chứng cứ
chứng minh; bản án sơ thẩm tính lãi buộc ông B phải trả là có căn cứ. Do đó, không
có căn cứ chấp nhận kháng cáo của đương sự, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên
các quyết định của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của nguyên đơn, bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Luật sư và của đại diện Viện Kiểm
sát; sau khi nghị án, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1]. Về tố tụng:
[1.1]. Quan hệ pháp luật và thẩm quyền: Ông Nguyễn Văn B khởi kiện yêu
cầu hủy hai hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 2281 và
2282 ngày 24/8/2018 giữa vợ chồng ông và bà T1, chị H1 đối với 923,8m
2
đất và
tài sản trên đất thuộc thửa số 38, tờ bản đồ số 38 thuộc khu phố Xích Đằng, phường
Lam Sơn, thành phố HY, tỉnh Hưng Yên; buộc bà T1 trả lại cho ông GCNQSDĐ
đối với thửa đất trên. Đồng thời, đồng ý trả cho bà T1 nợ gốc 600.000.000đ và lãi
của số tiền 600.000.000đ với mức lãi suất ông và bà T1 đã thỏa thuận là 1,2%/
tháng kể từ ngày 29/6/2018 âm lịch tức ngày 10/8/2018 dương lịch đến ngày Tòa
án xét xử sơ thẩm. Bị đơn bà T1 đề nghị công nhận hai hợp đồng chuyển nhượng
số công chứng 2281 và 2282 ngày 24/8/2018; yêu cầu phản tố đề nghị hủy hợp
đồng chuyển nhượng đất nông nghiệp 03 đề ngày 10/6/2009 giữa vợ chồng bà T1
với gia đình ông B đối với diện tích 163m
2
đất nông nghiệp giáp trạm thủy văn,
phía Tây giáp đất ông Nguyễn Văn C, và yêu cầu ông B trả lại cho bà số tiền
68.000.000đ tiền gốc và tiền lãi theo quy định của pháp luật tính từ ngày 10/6/2009.
Vì vậy quan hệ pháp luật được xác định là tranh chấp về hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp về hợp đồng vay tài sản.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là các chị Nguyễn Thị V
và Nguyễn Thị L xuất cảnh khỏi Việt Nam trước thời điểm Tòa án nhân dân thành
phố HY thụ lý và giải quyết vụ án nên Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên giải quyết
theo thẩm quyền là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
10
[1.2]. Trong quá trình giải quyết vụ án, bà T1 rút yêu cầu phản tố đề nghị
hủy hợp đồng chuyển nhượng đất nông nghiệp 03 đề ngày 10/6/2009 giữa vợ
chồng bà T1 với gia đình ông B đối với diện tích 163m
2
đất nông nghiệp giáp trạm
thủy văn, phía Tây giáp đất ông Nguyễn Văn C, và yêu cầu ông B trả lại cho bà số
tiền 68.000.000đ tiền gốc và tiền lãi theo quy định của pháp luật tính từ ngày
10/6/2009. Việc rút yêu cầu phản tố của bà T1 là tự nguyện, phù hợp với quy định
của pháp luật nên Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ yêu cầu phản tố và không xem xét
giải quyết trong vụ án này là đúng.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Trên cơ sở tài liệu có trong hồ sơ, lời khai của các bên đương sự. Có
căn cứ xác định giữa vợ chồng ông B, bà H3 và vợ chồng bà T1, ông T3 có quan hệ
vay mượn tài sản với nhau. Cụ thể, vợ chồng ông B vay vợ chồng bà T1 vào các
lần sau:
- Lần 1 vào ngày 06/6/2015, vay 100.000.000đ;
- Lần 2 vào ngày 08/8/2015 vay 50.000.000đ;
- Lần 3 vào ngày 19/8/2015 vay 70.000.000đ.
Tổng 3 lần vay là 220.000.000đ, được chốt vào giấy vay tiền đề ngày
06/6/2015, thời hạn vay là 3 năm, lãi suất 1,2%/ tháng, tháng nào trả lãi tháng đấy.
Ngày 08/12/2015 âm lịch, ông B vay của bà T1, ông T3 01 cây vàng, có viết
giấy vay, thỏa thuận trả bằng vàng và lãi suất 300.000đ/ tháng, tháng nào trả lãi
tháng đấy.
Ngày 09/5/2018 âm lịch, ông B vay của bà T1, ông T3 01 cây vàng.
Ngày 21/6/2018 (âm lịch) tức ngày 02/8/2018 dương lịch, ông B vay của bà
T1, ông T3 số tiền 130.000.000đ. Tính cả lãi của số tiền vay 220.000.000đ trong
thời hạn 2 tháng và lãi của hai cây vàng thì tổng là 7 triệu đồng. Do vậy, cả bà T1
và ông B đã chốt số tiền vay cả gốc và lãi trong giấy nhận tiền ngày 21/6/2018 (âm
lịch) là 137.000.000đ (130 triệu tiền gốc và 7 triệu tiền lãi).
Ngày 22/6/2018 âm lịch (tức 03/8/2018 dương lịch), ông B vay của bà T1,
ông T3 số tiền 20.000.000đ, có viết giấy vay, không ghi lãi suất nhưng thỏa thuận
bằng miệng lãi suất là 1,2%/ tháng.
Ngày 26/6/2018 âm lịch (tức ngày 07/8/2018 dương lịch), ông B vay của bà
T1, ông T3 số tiền 40.000.000đ có viết giấy vay, không ghi lãi suất nhưng thỏa
thuận bằng miệng lãi suất là 1,2%/ tháng. Tính đến ngày 07/8/2018, hai bên chốt
các khoản nợ gốc và lãi của tất cả các khoản ông B đã vay của bà T1 là
500.000.000đ và được ghi vào sổ chốt nợ của bà T1.
Ngày 29/6/2018 âm lịch (dương lịch là ngày 10/8/2018), ông B nhận của bà
T1, ông T3 số tiền 100.000.000đ có viết giấy vay nhận tiền bán đất. Tính đến ngày
29/6/2018 âm lịch, ông B đã vay của bà T1, ông T3 tổng số tiền cả gốc và lãi là
600.000.000đ.
Ngày 08/7/2018 âm lịch (dương lịch là ngày 18/8/2018), ông B có viết giấy
vay bà T1, ông T3 100.000.000đ.
11
Theo ông B, số tiền 100.000.000đ này là không có thật mà thực chất là số
tiền lãi của 600 triệu đồng nói trên tính đến tháng 10/2019 âm lịch với lãi suất
1,2%/tháng. Tuy nhiên, phía bà T1 không thừa nhận, bà khẳng định 100.000.000đ
là tiền thật và do bà trả cho ông B để tính vào tiền bán đất. Lời trình bày của bà T1
phù hợp với nội dung giấy biên nhận do chính ông B viết “Hôm nay ngày 8/7/2018
âm lịch, tôi Nguyễn Văn B cùng vợ là Nguyễn Thị H3 nhận thêm 100.000.000đ tổng
số là 700.000.000đ, anh B đã nhận đủ tiền, anh B phải trả đất em T1, T3 từ tháng
10 năm 2019 âm lịch”. Trong Giấy biên nhận do chính ông B viết không thể hiện
là khoản tiền lãi như ông B đã trình bày.
Như vậy, có căn cứ xác định đến ngày 08/7/2018 âm lịch tức là ngày
18/8/2018 dương lịch, vợ chồng ông B đã nhận của vợ chồng bà T1 tổng số tiền
700.000.000đ.
[2.2]. Về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất giữa vợ
chồng ông B, bà H3 với bà T1 và chị Đỗ Thị Thảo H1:
Nhận thấy, ngày 24/8/2018, vợ chồng ông B, bà H3 cùng với bà T1 và chị
H1 đã làm hai hợp đồng chuyển nhượng 923,8m
2
đất và tài sản trên đất thuộc thửa
số 38, tờ bản đồ số 38 thuộc khu phố Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố
Hưng Yên, tỉnh HYtại Văn phòng công chứng AD.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 2281, quyển số
03/2018 TP/CC-SCC/HĐGD giữa bên chuyển nhượng là vợ chồng ông Nguyễn
Văn B, bà Nguyễn Thị H3 và bên nhận chuyển nhượng là bà Bùi Thị T1 có nội
dung: Vợ chồng ông B, bà H3 chuyển nhượng cho bà T1 2 phần đất được tách từ
thửa số 38, trong đó phần thứ nhất diện tích 667,4m
2
, phần thứ hai diện tích
97,2m
2
. Giá tiền chuyển nhượng là 500.000.000đ.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số
công chứng 2282, quyển số 03/2018 TP/CC-SCC/HĐGD giữa bên chuyển nhượng
là vợ chồng ông Nguyễn Văn B và bên nhận chuyển nhượng là chị Đỗ Thị Thảo H1
có nội dung: Vợ chồng ông B, bà H3 chuyển nhượng cho chị Đỗ Thị Thảo H1 1
phần đất được tách từ thửa số 38 diện tích 159,2m
2
, tài sản trên đất là ngôi nhà 1,5
tầng. Giá tiền chuyển nhượng là 200.000.000đ.
Tổng giá trị chuyển nhượng của hai hợp đồng trên là 700.000.000đ chính là
số tiền vợ chồng ông B đã vay vợ chồng bà T1, ông T3.
[2.2.1]. Đánh giá hai hợp đồng chuyển nhượng:
Về hình thức: Cả hai hợp đồng đều được lập thành văn bản và được công
chứng, chứng thực theo đúng quy định của pháp luật. Bên chuyển nhượng và nhận
chuyển nhượng cùng ký và điểm chỉ vào hợp đồng. Thửa đất trước khi làm thủ tục
chuyển nhượng đã được UBND thành phố HY cấp GCNQSDĐ số CG 547131, vào
sổ cấp giấy số CH 00528 ngày 31/5/2018. Vì vậy có đủ điều kiện để chuyển
nhượng theo quy định của luật đất đai.
Xét nội dung hợp đồng: Phía ông B cho rằng việc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo hai hợp đồng công chứng số 2281, 2282
ngày 24/8/2018 không phải chuyển nhượng thực tế mà chỉ là hình thức để nhằm
cầm cố đảm bảo nghĩa vụ trả nợ. Trong khi bà T1 khẳng định là mua bán thật với
12
nhau.
Nhận thấy, quan hệ vay nợ giữa vợ chồng ông B với vợ chồng bà T1 là có
thật và được thể hiện trong sổ ghi các lần vay do bà T1 xuất trình. Đối với hai lần
giao nhận tiền sau cùng, mặc dù trong sổ ghi chép của bà T1 có thể hiện nội dung:
“Ngày 29/6/2018 âm lịch, ông B cùng vợ là bà H3 vay nhận tiền bán đất của em T1
số tiền là 100.000.000đ, tổng số đã lấy tất cả là 600.000.000đ, tôi Nguyễn Văn B,
vợ tôi là Nguyễn Thị H3 đã nhận đủ số tiền bán đất trên (là sáu trăm triệu)”. Và
biên nhận ngày 8/7/2018 âm lịch “Tôi là Nguyễn Văn B cùng vợ là Nguyễn Thị H3
nhận thêm 100.000.000đ tổng số là 700.000.000đ, anh B đã nhận đủ tiền, anh B
phải trả đất em T1 T3 từ tháng 10 năm 2019 âm lịch”. Tuy nhiên có căn cứ xác
định, đây thực chất không phải là chuyển thật giữa hai bên trên cơ sở sau:
Trên thực tế, khi giao dịch ký kết hợp đồng ngày 24/8/2018, các bên không
giao nhận bất cứ một khoản tiền nào cho nhau. Số tiền 700.000.000đ là các khoản
vay tiền và vàng cùng với khoản tiền lãi được hai bên tính toán và chốt lại với nhau
như phân tích nêu trên; cụ thể: Ngày 29/6/2018 âm lịch chốt số tiền cả gốc và lãi là
600.000.000đ; ngày 08/7/2018 âm lịch tức là ngày 18/8/2018 dương lịch, vợ chồng
ông B đã nhận thêm 100.000.000đ của vợ chồng bà T1 nên số tiền được chốt thành
700.000.000đ.
Lời khai của bà T1 thể hiện:
“Bản chất ban đầu là ông B vay tiền của vợ chồng tôi nhưng do không trả
được tiền nên chúng tôi mới thỏa thuận theo hai hợp đồng chuyển nhượng ngày
24/6/2018 mà ông B đã cung cấp cho Tòa án. Sau khi ông B làm được Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thì tôi phải cầm để làm tin”.
“Đến tháng 10/2019 âm lịch thì tôi và ông B thỏa thuận là cho phép ông B
bán toàn bộ nhà đất đã ký theo hợp đồng chuyển nhượng cho tôi cho người khác để
trả tôi 1 tỷ đồng, tôi sẽ xóa nợ cho việc trước đây đã chuyển nhượng cho tôi loại
đất 03 nhưng là đất quy hoạch không chuyển nhượng được với số tiền
150.000.000đ và xóa bỏ nợ 700.000.000đ và hai hợp đồng chuyển nhượng ngày
24/8/2018”.
Bên cạnh đó, phía chị H1 con gái bà T1 cũng có lời khai: “Việc mua bán đất
giữa bố mẹ chị và gia đình ông B chị hoàn toàn không biết, mọi việc là do bà T1
quyết định. Chị chỉ được mẹ nhờ đứng tên trong hợp đồng chuyển nhượng mà
không biết giao dịch giữa mẹ chị và ông B nên đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật để
giải quyết”.
Hơn nữa, từ khi ký kết hợp đồng chuyển nhượng ngày 24/8/2018 thì gia đình
ông B vẫn là người trực tiếp quản lý sử dụng thửa đất số 38 diện tích 923,8m
2
và
toàn bộ tài sản trên đất. Gia đình bà T1 chưa khi nào yêu cầu gia đình ông B phải
bàn giao đất trong khi tại Điều 3 của hợp đồng quy định“Bên A (gia đình ông B) có
nghĩa vụ giao một phần thửa đất và tài sản gắn liền với đất cùng giấy tờ về quyền
sử dụng đất cho bên B vào thời điểm sau khi bên A nhận đủ tiền”. Bởi nếu việc
mua bán là thật thì ngay tại thời điểm ký hợp đồng 24/8/2018 thì gia đình ông B đã
nhận đủ số tiền 700 triệu đồng. Và bà T1 hoàn toàn có quyền yêu cầu gia đình ông
B bàn giao đất tại thời điểm đó. Thực tế bà T1, chị H1 chưa khi nào làm thủ tục
sang tên đăng ký quyền sử dụng đất tại cơ quan có thẩm quyền đối với tài sản là đối
13
tượng chuyển nhượng.
Mặt khác, theo Quyết định số 31/2017/QĐ-UBND ngày 20/12/2017 của
UBND tỉnh Hưng Yên thì giá đất tại vị trí nhà ông B có giá là 1.200.000đ/m
2
; giá
thực tế xác minh tại khu vực đất nhà ông B, đội 13 Xích Đằng thời điểm tháng
8/2018 theo cung cấp của UBND phường là khoảng 8 triệu đồng/m
2
. Cho nên với
tổng diện tích đất 923,8m
2
và ngôi nhà 1,5 tầng cùng một số tài sản khác trên đất sẽ
không phù hợp với mức giá 700 triệu đồng (tương đương giá đất chỉ khoảng
757.739đ/m
2
) vào thời điểm chuyển nhượng năm 2018 tại địa phương.
Tại phiên tòa sơ thẩm, bà T1 cũng thừa nhận việc tách đất chuyển nhượng
làm thành hai hợp đồng mục đích là để sau này tiện cho việc cho gia đình ông B
chuộc lại tài sản thông qua việc trả nợ.
Trên thực tế, đến tháng 10/2019 âm lịch, có việc vợ chồng ông B tH2 lượng
việc trả nợ với gia đình bà T1 nhưng do hai bên không thống nhất được số tiền phải
trả là 1 tỷ đồng hay 900 triệu đồng nên chưa tất toán được khoản nợ với nhau. Phù
hợp với lời khai của bà T1 là đồng ý cho gia đình ông B bán nhà đất cho người
khác để trả bà T1 1 tỷ đồng vào tháng 10/2019 âm lịch.
Vì vậy, có căn cứ xác định, việc vay nợ tài sản giữa vợ chồng ông B và bà
T1 là có thật. Và việc giao dịch chuyển nhượng theo Hợp đồng số công chứng
2281, quyển số 03/2018 TP/CC-SCC/HĐGD giữa bên chuyển nhượng là vợ chồng
ông Nguyễn Văn B và bên nhận chuyển nhượng là bà Bùi Thị T1. Và Hợp đồng số
công chứng 2282, quyển số 03/2018 TP/CC-SCC/HĐGD giữa bên chuyển nhượng
là vợ chồng ông Nguyễn Văn B và bên nhận chuyển nhượng là chị Đỗ Thị Thảo H1
đối với tài sản nhà đất của vợ chồng ông B là giao dịch giả tạo giữa hai bên nhằm
đảm bảo nghĩa vụ trả nợ giữa vợ chồng ông B, bà H3 với vợ chồng bà T1, ông T3
mà không phải là chuyển nhượng thực tế. Cho nên giao dịch trên sẽ bị vô hiệu theo
quy định tại Điều 124 Bộ luật dân sự 2015.
Yêu cầu của ông Nguyễn Văn B về việc hủy hợp đồng số công chứng 2281,
quyển số 03/2018 TP/CC-SCC/HĐGD giữa bên chuyển nhượng là vợ chồng ông
Nguyễn Văn B và bên nhận chuyển nhượng là bà Bùi Thị T1; hủy Hợp đồng số
công chứng 2282, quyển số 03/2018 TP/CC-SCC/HĐGD giữa bên chuyển nhượng
là vợ chồng ông Nguyễn Văn B và bên nhận chuyển nhượng là chị Đỗ Thị Thảo H1
là có căn cứ, được chấp nhận. Yêu cầu của bà Bùi Thị T1 về việc đề nghị công
nhận hai hợp đồng trên và buộc vợ chồng ông B, bà H3 phải tiếp tục thực hiện hai
hợp đồng là không được chấp nhận.
[2.3]. Về giải quyết hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu và xử lý hợp đồng vay
tài sản:
Ông B đề nghị hủy hai hợp đồng chuyển nhượng và đồng ý trả bà T1 số tiền
gốc 600.000.000đ và lãi theo thỏa thuận 1,2%/tháng kể từ ngày 08/7/2018 âm lịch
tức là ngày 18/8/2018 dương lịch đến ngày xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên, bà T1 không
chấp nhận và yêu cầu gia đình ông B phải thực hiện hợp đồng đã ký kết ngày
24/8/2018 vì bà cho rằng khoản tiền vay nợ giữa hai bên là 700.000.000đ đã
chuyển hóa thành tiền thanh toán cho hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất số 2281 và 2282. Bà T1 cũng xác nhận kề từ ngày
08/7/2018 âm lịch, vợ chồng ông B chưa trả cho bà thêm bất cứ một khoản lãi nào
14
của số tiền 700.000.000đ.
Như trên phân tích, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất theo hai hợp đồng số 2281 và 2282 là giả tạo và đã bị hủy. Vì vậy trong
trường hợp này, không phải xem xét giải quyết giải quyết hậu quả của hợp đồng vô
hiệu theo quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự 2015. Mà phải xem xét Giao dịch
gốc giữa hai bên là hợp đồng vay tài sản và thuộc trường hợp có tranh chấp về lãi
suất để buộc bên vay phải thanh toán trả bên cho vay.
Do đó, cần buộc vợ chồng ông B, bà H3 phải trả bà T1 số tiền vay gốc
700.000.000đ. Về số tiền lãi, căn cứ khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015, mức
lãi suất được áp dụng để buộc nguyên đơn phải trả cho bị đơn là 10%/năm đối với
số tiền 700.000.000đ, thời gian tính từ ngày 18/8/2018 dương lịch (tức ngày
8/7/2018 âm lịch) cho đến ngày xét xử sơ thẩm 22/12/2022 là 4 năm 4 tháng 4
ngày. Số tiền lãi phải trả là 304.100.456đ.
Như vậy, phía gia đình ông B, bà H3 phải có nghĩa vụ hoàn trả bà T1, ông
T3 số tiền cả gốc và lãi là 1.004.100.456 đồng.
Đối với chi phí trích đo thửa đất theo phiếu thu ngày 14/8/2018 hết
3.870.000đ bà T1 đã chi. Cần buộc ông B trả lại bà T1 số tiền này.
Tổng cộng, vợ chồng ông B phải trả bà T1, ông T3 số tiền 1.007.970.456đ.
[2.4]. Về GCNQSDĐ do UBND thành phố HY cấp ngày 31/5/2018 cho ông
Nguyễn Văn B và bà Nguyễn Thị H3 số CG 547131, vào sổ cấp giấy số CH 00528,
đối với thửa đất thửa số 38, tờ bản đồ số 38, diện tích 923,8m
2
thuộc khu phố Xích
Đằng, phường Lam Sơn, thành phố HY, tỉnh Hưng Yên. Hiện bà T1 đang quản lý
Giấy chứng nhận. Do hai hợp đồng chuyển nhượng số công chứng 2281 và 2282 đã
bị hủy nên bà T1 phải trả gia đình ông B Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu
trên.
Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Luật phí và lệ
phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Bùi Thị T1. Giữ nguyên quyết
định của Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2022/DS-ST ngày 22 tháng 12 năm 2022 của
Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Bùi Thị T1 phải nộp 300.000 đồng nhưng
được đối trừ số tiền đã nộp tại Biên lai thu số AA/2021/0000201 ngày 29/12/2022
của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hưng Yên (xác nhận bà T1 đã nộp xong án phí dân
sự phúc thẩm).
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
15
Nơi nhận:
- VKSND cấp cao tại Hà Nội;
- TAND tỉnh Hưng Yên;
- VKSND tỉnh Hưng Yên;
- Cục THA dân sự tỉnh Hưng Yên;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu HS, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Đã ký
Võ Hồng Sơn
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 18/12/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 08/12/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 03/12/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 03/12/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 26/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 26/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 26/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm