Bản án số 57/2022/HS-ST ngày 21/06/2022 của TAND TP. Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước về tội mua bán trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 57/2022/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 57/2022/HS-ST ngày 21/06/2022 của TAND TP. Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước về tội mua bán trái phép chất ma túy
Tội danh: 251.Tội mua bán trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Đồng Xoài (TAND tỉnh Bình Phước)
Số hiệu: 57/2022/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/06/2022
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 57/2022/HS-ST NGÀY 21/06/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 39/2022/TLST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Ma Khánh T (tên gọi khác: Không), sinh năm 1981 tại Thái Nguyên; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chổ ở hiện nay ấp Đ, xã P, huyện P, tỉnh P; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Ma Khánh T, sinh năm 1957 và bà Trần Thị M, sinh năm 1957, bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con lớn nhất trong gia đình, nhỏ nhất sinh năm 1992; bị cáo có vợ là Ma Thị K và có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2006; nhỏ nhất sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo hiện đang bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Đ từ ngày 09/02/2022 cho đến nay “có mặt tại phiên tòa”.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Hoàng Thị U (tên gọi khác: M), sinh năm 1988 “có đơn xin vắng mặt”;

Trú tại: khu phố T, phường X, thành phố Đ, tỉnh P;

Ông Lương Bạch Đ, sinh năm 1987 “vắng mặt”;

Chổ ở hiện nay Khu Công nghiệp Nam Đồng Phú, xã L, huyện P, tỉnh P.

Người chứng kiến:

Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1995 “vắng mặt”; Chổ ở hiện nay: khu phố T, phường X, thành phố Đ, tỉnh P;

Bà Nguyễn Thị Thu Th, sinh năm 1966 “vắng mặt”;

Trú tại: khu phố T, phường X, thành phố Đ, tỉnh P.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do bản thân là người sử dụng trái phép chất ma túy đá nên Ma Khánh T nảy sinh ý định mua ma túy về bán lại cho các con nghiện để kiếm lời. Vào khoảng 10 giờ ngày 09/02/2022 khi T đang ở nhà thì có Hoàng Thị U(tên thường gọi là M) gọi điện thoại cho Tú hỏi mua 200.000 đồng tiền ma túy đá thì Tú đồng ý bán, lúc này do không có sẵn ma túy đá nên T đã hẹn với Uchiều giao ma túy thì Uđồng ý. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, T gọi điện thoại cho S (không xác định được nhân thân, lai lịch) ở xã Thuận Lợi, huyện Đồng Phú, tỉnh P để hỏi mua 500.000 đồng tiền ma túy đá, thì S đồng ý hẹn giao dịch mua bán ma túy tại xã Thuận Lợi. Sau đó Tú một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner biển số 37D1-170x đi đến địa điểm hẹn trước đó và gọi điện thoại cho S thì được S hướng dẫn qua điện thoại cho Tú để tiền mua ma túy vào gốc cột điện đối diện nhà máy mủ cao su Thuận Dung, thuộc xã L, huyện P, tỉnh P. T đồng ý làm theo như S hướng dẫn, rồi điều khiển xe đi lòng vòng ở khu vực gần đó. Khoảng 15 phút sau T quay lại gốc cây cột điện nơi T đã bỏ tiền mua ma túy trước đó, thì thấy 01 (một) tờ vé số gấp nhỏ lại T biết đó là mua túy S bán cho T nên liền nhặt lên mở ra xem thấy 01 (một) gói nylon bên trong có chứa ma túy đá. Sau khi mua được ma túy thì T gọi điện thoại hỏi Uđịa điểm giao dịch ma túy thì U chỉ cho T đến phòng số 12 của khách sạn “Hương Sen”, thuộc khu phố T, phường X, thành phố Đ, tỉnh P. Đến khoảng 16 giờ ngày 09/02/2022, khi T vừa đi đến khu vực hành lang trước phòng số 12 khách sạn “Hương Sen” thì bị lực lượng cơ quan Công an thành phố Đ kiểm tra phát hiện bên trong tất chân T đang mang ở bàn chân phải của T có 01 tờ vé số được gấp nhỏ lại bên trong có 01 (một) gói nylon hàn kín các mép kích thước (5,0 x 3,0)cm chứa chất tinh thể màu trắng Ma Khánh T khai nhận là ma túy T mua được trước đó tại xã L, huyện P, tỉnh P cất giấu với mục đích để mang đi bán cho người khác kiếm tiền lời nhưng chưa kịp bán thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Quá trình điều tra bắt quả tang, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã thu giữ 01(một) gói nylon hàn kín, kích thước (5,0x3,0) cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 (một) tờ vé số; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế 01 nắp chai nhựa màu vàng đục lỗ, 02 nỏ thủy tinh, 01 đoạn ống hút nhựa; 01 (một) kéo bằng kim loại; 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu Caraven; 01 (một) điện thoại di động hiệu Titel màu đen, đã qua sử dụng và 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Winner biển số 37D1-170x.

Ngày 07/4/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho ông Lương Bạch Đ 01(một) xe mô tô nhãn hiệu Winner biển số 37D1-170x.

Tại bản kết luận giám định số 51/2022/GĐ-MT ngày 16/2/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh P kết luận: Tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon hàn kín (ký hiệu M) được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 2,3442gam.

Tại Bản cáo trạng số 45/CT-VKS ngày 11/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố bị cáo Ma Khánh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Ma Khánh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Ma Khánh T mức án từ 03 năm đến 3 năm 06 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo bị tạm giam và không có thu nhập ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng.

Về xử lý vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Titel màu đen, đã qua sử dụng. Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư đựng ma tuý hoàn lại sau giám định ký hiệu vụ số 51 ngày 10 tháng 02 năm 2022 được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh P niêm phong, đóng dấu giáp lai;

01 (một) tờ vé số; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế gồm 01 nắp chai nhựa màu vàng đục lỗ, 02 nỏ thủy tinh, 01 đoạn ống hUnhựa; 01 (một) kéo bằng kim loại và 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu Caraven;

Bị cáo T tại phiên tòa đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng truy tố.

Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng về thời gian, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng vụ án đồng thời phù hợp với kết luận của đại diện Viện kiểm sát cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm vấn công khai tại phiên tòa. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Do muốn có tiền tiêu xài và ma túy để sử dụng nên khoảng 10 giờ ngày 09/2/2022 Ma Khánh T dùng số tiền 500.000 đồng mua ma túy của người tên S (chưa rõ nhân thân, lai lịch) mục đích để bán lại cho đối tượng tên Hoàng Thị Ukiếm tiền lời. Khi T mang ma túy đến khách sạn Hương Sen bán cho Uthì bị lực lượng Công an thành phố Đ kiểm tra hành chính bắt quả tang bị cáo cùng tang vật.

Tại bản kết luận giám định số 51/2022/GĐ-MT ngày 16/2/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh P kết luận: Tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon hàn kín (ký hiệu M) được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 2,3442gam.

Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Hành mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người và an ninh trật tự tại địa phương, là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội khác, ảnh hưởng đến lối sống lành mạnh của cộng đồng dân cư; xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước trong việc mua bán, cất giữ, bảo quản và vận chuyển các chất ma túy. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được xem xét tình tiết giảm nhẹ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, phải nuôi các con còn nhỏ, bị cáo là người đồng bào dân tộc nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế, do đó bị cáo được xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo đang bị tạm giam và không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

[6] Về quyết định hình phạt: Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

- Đối với người thanh niên tên S là người bán ma túy cho bị cáo Ma Khánh T hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ chưa xác minh được nhân thân, lai lịch đã tách ra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với Hoàng Thị U là người mua ma túy của Ma Khánh T nhưng chưa kịp giao dịch mua bán thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang, quá trình điều tra U khai nhận đã sử dụng ma túy đá vào ngày 09/02/2022 tại khu phố T, phường X, thành phố Đ, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Hoàng Thị Uvới số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 01 Điều 23 của Nghị định 144/2022/NĐ-CP nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về vật chứng của vụ án:

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Cần tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và các vật dụng được bị cáo dùng vào việc cất giấu, sử dụng ma túy gồm 01 bì thư đựng ma tuý hoàn lại sau giám định ký hiệu vụ số 51 ngày 10 tháng 02 năm 2022 được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh P niêm phong, đóng dấu giáp lai; 01 (một) tờ vé số; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế gồm 01 nắp chai nhựa màu vàng đục lỗ, 02 nỏ thủy tinh, 01 đoạn ống hUnhựa; 01(một) kéo bằng kim loại và 01(một) vỏ bao thuốc lá hiệu Caraven;

Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Titel màu đen đã cũ là phương tiện được bị cáo Ma Khánh T sử dụng để liên hệ mua ma túy nên cần tuyên tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Winner, biển số 37D1-170x của ông Lương Bạch Đ, khi cho bị cáo T mượn làm phương tiện đi lại ông Đ không biết bị cáo sử dụng vào mục đích phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho ông Lương Bạch Đ nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ tại phiên tòa là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Ma Khánh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Ma Khánh T 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 09/02/2022.

3. Về vật chứng vụ án:

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Titel màu đen, đã qua sử dụng, không lên nguồn, không kiểm tra được tình trạng máy móc bên trong.

Tịch thu tiêu hủy 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng đã được niêm phong; 01 (một) tờ vé số đã cũ; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế gồm (01 nắp chai nhựa màu vàng đục lỗ, 02 nỏ thủy tinh, 01 đoạn ống hút nhựa; 01(một) kéo bằng kim loại và 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu Caraven.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0001994, quyển số 0040, ký hiệu D47/2017 ngày 30/5/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ).

4. Về án phí sơ thẩm:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Ma Khánh T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Tải về
Bản án số 57/2022/HS-ST Bản án số 57/2022/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất