Bản án số 54/2025/DS-ST ngày 26/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 1 - Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 54/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 54/2025/DS-ST ngày 26/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 1 - Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 1 - Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
Số hiệu: 54/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 1- QUẢNG NGÃI
Bản án số: 54/2025/DS-ST
Ngày: 26-9-2025
V/v tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng
mua bán tài sản và yêu cầu tuyên hợp
đồng đặc cọc vô hiệu.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHNGA VIỆT NAM
Độc lập - Tdo - Hạnh pc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 1 - TỈNH QUẢNG NGÃI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Thu;
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Nguyễn Thị Anh Thư và bà Nguyễn Thị Xuân
Thương.
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Thanh Thủy Thư ký Tòa án của Tòa án nhân
dân khu vực 1- Quảng Ngãi.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 1- Quảng Ngãi tham gia phiên
toà: Phạm Thị Như Ý - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 9 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân Khu vực 1- Quảng
Ngãi t xử thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 03/2024/TLSTDS ngày
12/03/2024 về việc“Tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng mua bán tài sản”, theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 117/2025/QĐXXST-DS ngày 05 tháng 9 năm
2025 Quyết định hoãn phiên tòa số: 102/2025/QĐST-DS ngày 20 tháng 9 năm
2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn N, sinh năm 1977;
Địa chỉ: Thôn Tây An H, huyện Lý S (nay là Đặc khu Lý S), tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo ủy quyền cho ông N: Chị Trần Thị H, sinh năm 1989;
Địa chỉ: Phan Bội Châu, phường Nghĩa L, tỉnh Quảng Ngãi (theo văn bản ủy
quyền ngày 19/4/2025),
- Bị đơn: Trần Thị Thúy L, sinh năm 1960;
Địa chỉ Lợi, tổ 8, phường Nghĩa L, thành phố Quảng N, tỉnh Quảng Ngãi
(nay là Lê Lợi, tổ 8, phường Nghĩa L, tỉnh Quảng Ngãi).
Người đại diện theo ủy quyền cho bà L: Anh Võ Bá L, sinh năm 2002
Địa chỉ: Phường 1, thành phố Vũng T, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (nay là Phường
2
Vũng T, thành phố Hồ Chí Minh), (theo văn bản ủy quyền ngày 24/3/2025),
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật Cồ H, của
Công ty Luật TNHH Đại V thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh,
Địa chỉ: Lầu 1, Lý Chính Thắng, phường Thị S, Quận , TP. Hồ Chí Minh
(nay là phường Xuân H, TP.Hồ Chí Minh).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Tạ Thị Bích C, sinh năm 1985;
Địa chỉ: Thôn Tây An H, huyện Lý S (nay là Đặc khu Lý S), tỉnh Quảng Ngãi,
+ Văn phòng công chứng Hoàng Gia Đoán;
Địa chỉ: 699 Quang Trung, phường Nghĩa C, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh
Quảng Ngãi (nay là phường Cẩm T, tỉnh Quảng Ngãi).
Người đại diện theo pháp luật: Ông Hoàng Gia Đ - Trưởng văn phòng.
+ Bà Phạm Thị Đ, sinh năm 1981;
Địa chỉ: Thôn Đông An V, Đặc khu S (nay Đặc khu S), tỉnh Quảng
Ngãi.
- Người làm chứng:
+ Ông Trần Văn N, sinh năm 1970;
Địa chỉ: phường Trung Mỹ Tây, quận , thành phố Hồ Chí Minh (nay
phường Trung Mỹ T, thành phố Hồ Chí Minh).
+ Anh Đinh Công T, sinh năm 1992;
Địa chỉ: Thôn Lạc Bình, xã Lạc X, huyện Đơn D, tỉnh Lâm Đồng (nay
D’R, tỉnh Lâm Đồng).
+ Anh Dương Quang V, sinh năm 1994;
Địa chỉ: Thôn Tây An H, huyện Lý S (nay là Đặc khu Lý S), tỉnh Quảng Ngãi
Anh L, ông H có mặt; bà H, bà C, bà Đ, ông Đ, ông N, ông T, ông V đều vắng
mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện ngày 10/9/2023, bản trình bày, trong quá trình tố tụng
nguyên đơn ông Nguyễn N trình bày:
Ngày 28/8/2020, ông Nhân Uỷ ban nhân dân huyện Lý Sơn (nay là UBND
Đặc khu Sơn) ký hợp đồng thuê đất số 02/HĐTĐ với thoả thuận Uỷ ban nhân
dân huyện Sơn cho ông N thuê diện tích 2.768,4 m
2
, tờ bản đồ số 33; thời hn
thuê đất 08 năm, 09 tháng, kể từ ngày Uỷ ban nhân dân huyện quyết định cho
thuê đất. Trên khu đất được thuê Nhà hàng Tân Thành Phát với 03 hạng mục
công trình: Khu Nhà hàng, Khu bếp, Khu dịch vụ + karaoke.
3
Theo đó, đến ngày 28/5/2021, ông N được Uỷ ban nhân dân huyện n
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền
với đất số phát hành CU 537611, svào sổ CH 09923 đối với thửa đất số 25, tờ
bản đồ s33, diện tích 2768,4 m
2
tại thôn Đồng Hộ An Hải, huyện Lý Sơn, tỉnh
Quảng Ngãi với thời hạn sử dụng đến thánh 3 năm 2029.
Thông qua một người quen giới thiệu, ông N vợ Tạ Thị Bích C
quen biết Trần Thị Thúy L, L đã gặp gỡ thương lượng mua toàn bộ nhà
hàng gắn liền với đất ththửa đất số 25, tờ bản đồ số 33, diện tích 2768,4 m
2
tại thôn Đồng Hộ An H, huyện Sơn (nay Đặc khu Sơn), tỉnh Quảng Ngãi
của vợ chồng ông N với số tiền 06 tỷ đồng, chi phí công chứng và thuế thu nhập cá
nhân do vợ chồng ông N chịu, lệ phí trước bạ do bà L chịu.
Sau khi thống nhất thỏa thuận nêu trên, ngày 11/8/2022, vợ chồng ông N cùng
L kết hợp đồng mua bán tài sản do Văn phòng công chứng Hoàng Gia Đoán
công chứng số 595, quyền s 02/2022/TP/CC-SCC/HĐGD. Theo nội dung hợp
đồng này, tài sản mua bán là toàn bộ tài sản của vợ chồng tôi trên đất nhà nước cho
thuê thửa đất số 25, tờ bản đồ số 33, diện tích 2768,4 m
2
tại thôn Đồng Hộ An
H, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi với tên công trình là Nhà hàng Tân Thành Phát
gồm các hạng mục (khu Nhà hàng, Khu bếp, Khu dịch vụ + karaoke) với thời gian
sở hữu đến tháng 3 năm 2029. Nguyên nhân giá mua bán toàn bộ tài sản ghi trong
hợp đồng thấp hơn giá mua bán thực tế (6.000.000.000 đồng) nhằm mục đích giảm
thuế thu nhập nhân, phí công chứng lệ phí trước bạ. Tại thời điểm hợp
đồng mua bán tài sản, hai bên mua bán thỏa thuận tự thực hiện và chịu trách nhiệm
việc thanh toán số tiền mua bán tài sản.
Sau khi hợp đồng mua bán tài sản do Văn phòng công chứng Hoàng Gia Đoán
công chứng ngày 11/8/2022 thì L không thanh toán tiền bán tài sản cho vợ
chồng ông N như đã thỏa thuận. Do đó, ông N không giao bản chính Hợp đồng
mua bán tài sản nói trên không giao bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền shữu nhà tài sản khác gắn liền với đất thửa đất số 25, tờ bản đồ
số 33, diện tích 2768,4 m
2
tại thôn Đồng Hộ An H, huyện Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi cho bà Trần Thị Thúy L.
Do L vi phạm nghĩa vụ thanh toán, vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp
đồng làm không thực hiện được mục đích hợp đồng nên ông N yêu cầu Tòa án
xem xét, giải quyết tuyên hủy Hợp đồng mua bán tài sản giữa bên bán Nguyễn N,
Tạ Thị Bích C và bên mua Trần Thị Thúy L do Văn phòng công chứng Hoàng Gia
Đoán công chứng số 595, quyền số 02/2022/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/8/2022.
4
Người đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn bà Trần Thị H trình bày:
H thống nhất như phần trình bày của nguyên đơn về yêu cầu hủy Hợp
đồng mua bán tài sản giữa bên bán Nguyễn N, Tạ Thị Bích C bên mua Trần Thị
Thúy L do Văn phòng công chứng Hoàng Gia Đoán công chứng số 595, quyền số
02/2022/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/8/2022. bị đơn vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng; đồng thời theo quy định tại điểm b khoản 1
Điều 423 khoản 1 Điều 427 Bộ luật Dân sự năm 2025, khi hợp đồng bị hủy do
bên mua vi phạm nghĩa vụ thì hợp đồng không hiệu lực tthời điểm giao kết,
bên bán (ông N) bên mua (bà L) không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận.
Hậu quả pháp các bên không phải thực hiện các nghĩa vụ như đã thỏa thuận
trong hợp đồng.
Đối với hợp đồng đặt cọc ngày 04/8/2022, ông N không biết không vào
hợp đồng. Ông N không nhận được bất kỳ khoản tiền đặt cọc nào tL nên ông
N không có nghĩa vụ hoàn trả số tiền cọc và bồi thường phạt cọc như bà L yêu cầu.
Việc L yêu cầu tuyên bố hợp đồng đặt cọc ngày 04/8/2022 hiệu thì đề nghị
Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.
* Theo bản tự khai ngày 04/5/2024, ngày 28/10/2024, ngày 13/11/2024, bị
đơn trình bày:
Theo hợp đồng đặt cọc ngày 04/8/2022 giữa ông Nguyễn N được
hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất. Anh Dương
Quang V người i giới đại diện cho thương thảo hợp đồng đặt cọc về
việc chuyển nhượng tài sản trên đất quyền sử dụng tại thửa đất số 25, tờ bản đồ
số 33, diện tích 2768,4 m
2
tại thôn Đồng Hộ An Hải, huyện Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi. Các bên thống nhất việc chuyển nhượng 6.000.000.000 đồng, đặt cọc
500.000.000 đồng. Ngày 02/8/2022, đại diện là anh Đinh Công T đã chuyển
khoản cho anh V nhận số tiền 500.000.000 đồng với mục đích đặt cọc để nhận
chuyển nhượng thửa đất số 25, tờ bản đồ số 33 trên. Cũng trong ngày 02/8/2022
ông N đã ký hợp đồng đặt cọc (anh V là người làm chứng và cùng ông N soạn thảo
hợp đồng đặt cọc) tiến hành hợp đồng đặt cọc. Tại thời điểm đó, anh V đã đại
diện bà L dùng số tiền anh Đinh Công T đã chuyển cho anh V để chuyển cho anh
N nhận tiền đặt cọc thửa đất trên.
Đến nay, ông N chỉ hợp đồng chuyển nhượng nhà, tài sản trên đất (ông N
đang giữ toàn bộ hồ chuyển nhượng) tại phòng công chứng. Việc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất theo Điều 1 “Bên A đồng ý bán cho bên B nhà đất”
tại hợp đồng đặt cọc ngày 04/8/2022 thì ông N vẫn không thực hiện việc hợp
đồng chuyển nhượng. đã gửi văn bản yêu cầu ông N đến phòng công chứng để
hợp đồng chuyển nhượng hết các quyền hạn của thửa đất bao gồm quyền sử
5
dụng đất nên trên như đã thỏa thuận tại hợp đồng đặt cọc với nhưng ông N vẫn
không thực hiện.
Trường hợp ông N không thực hiện việc hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất thì phải hoàn trả lại tiền cọc 500.000.000 đồng đã nhận vào ngày
02/8/2022 theo hợp đồng đặt cọc ngày 04/8/2022 bồi thường gấp đôi
(1.000.000.000 đồng) số tiền bà đã đặt cọc tại điều khoản cam kết chung của
hợp đồng đặt cọc.
Nguyên đơn yêu cầu hủy hợp đồng mua bán tài sản đã tại văn phòng công
chứng Hoàng Gia Đoán với do không thanh toán số tiền 06 tỷ đồng thì L
không đồng ý và bà yêu cầu vợ chồng ông N tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán
tài sản trên. Lý do bà L chưa thanh toán tiếp số tiền như đã thỏa thuận tại hợp đồng
đặt cọc ngày 04/8/2022, ông N chưa thực hiện hết quyền trách nhiệm tại nội
dung Điều 1 “Bên A đồng ý bán cho bên B nhà đất” theo như cam kết trong
hợp đồng.
Tại thời điểm công chứng thì bà mới biết thửa đất các bên thỏa thuận chuyển
nhượng đất do Nhà nước cho ông N thuê thời hạn, không được chuyển
nhượng quyền sử dụng đất mà chỉ được chuyển nhượng tài sản trên đất nên hai bên
mới thỏa thuận hợp đồng công chứng chuyển nhượng tài sản trên đất trước với
số tiền 400.000.000 đồng. Do đó, tiền đặt cọc 500.000.000 đồng đã bao gồm số
tiền mua tài sản trên đất.
L thừa nhận không trực tiếp vào hợp đồng đặt cọc ng không
ông N mặt tại thời điểm hợp đồng đặt cọc ngày 04/8/2022 hay không. Việc
anh V trình bày “chú Nam không liên quan gì đến hợp đồng đặt cọc” thì bà đồng ý.
Hợp đồng mua bán tài sản giữa bên bán Nguyễn N, TThị Bích C bên mua
Trần Thị Thúy L do Văn phòng công chứng Hoàng Gia Đoán công chứng số 595,
quyền số 02/2022/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/8/2022 chỉ hợp đồng giả cách,
nhằm che giấu nội dung của Hợp đồng đặt cọc ngày 04/8/2022.
Ngày 02/7/2024, Tòa án đã thụ lý yêu cầu phản tố của bị đơn:
- Yêu cầu ông Nguyễn N tiếp tục ký kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại
Điều 1 “Bên A đồng ý bán cho bên B nhà - đất” của thửa đất theo hợp đồng đặt cọc
ngày 04/8/2022.
- Trường hợp ông Nguyễn N không tiếp tục kết hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất tại Điều 1 “ Bên A đồng ý bán cho bên B nhà - đất” của thửa đất
theo hợp đồng đặt cọc ngày 04/08/2022 thì yêu cầu ông Nguyễn N hoàn trả số tiền
đặt cọc 500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng) bồi thường 1.000.000.000
(một tỷ đồng) theo như điều khoản cam kết chung của hợp đồng đặt cọc ngày 04
tháng 08 năm 2022. Tổng số tiền phải trả và bồi thường theo hợp đồng là
6
1.500.000.000 (một tỷ năm trăm triệu đồng) hủy hợp đồng đặt cọc ngày
04/08/2022.
Ngày 25/3/2025, bị đơn thay đổi yêu cầu phản tố, rút yêu cầu phản tố thụ
ngày 02/7/2024 và yêu cầu:
- Tuyên vô hiệu hợp đồng đặt cọc ngày 04/8/2022.
- Giải quyết hậu quả pháp của việc tuyên bố Hợp đồng hiệu: Buộc ông
Nguyễn N phải hoàn trả stiền cọc đã nhận 500.000.000 đồng (năm trăm triệu
đồng); Buộc ông Nguyễn N phải bồi thường 500.000.000 (năm trăm triệu đồng).
Tổng cộng ông Nguyễn N phải thanh toán số tiền 1.000.000.000 (một tỷ đồng).
Thanh toán một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật.
Ngày 22/4/2025, L đơn đề nghị Tòa án trưng cầu giám định chữ viết,
chữ trong Hợp đồng đặt cọc ngày 04/8/2022 của ông N, L và người làm
chứng anh V.
* Theo bản tự khai ngày 22/4/2025, người đại diện theo ủy quyền cho bị đơn
anh Võ Bá L trình bày:
Bị đơn (bà L) vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua
bán tài sản, vì: Nguyên đơn (ông N) vẫn chưa thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo
Hợp đồng đặt cọc ngày 04/8/2022 các bên đã trước đó. Theo đó, hợp đồng
đặt cọc nội dung ông N đồng ý bán cho bà L quyền sở hữu nhà quyền sử
dụng đất tại thửa đất số 25, tờ bản đồ số 33, diện tích 2768,4 m
2
tại thôn Đồng Hộ
An Hải, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi với giá chuyển nhượng 06 tỷ đồng. Tuy
nhiên, đến nay ông N chỉ mới ký với L hợp đồng chuyển nhượng nhà, tài sản
trên đất; còn hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo thỏa thuận trong
hợp đồng đặt cọc nêu trên đến thời điểm hiện nay, ông N vẫn không chịu hợp tác
cùng L đến văn phòng công chứng thẩm quyền đ hợp đồng chuyển
nhượng.
Việc ông N không tiếp tục ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với
L đã vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng đặt cọc, dẫn đến việc L không thể
giao tiền cho ông Nhân.
Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền cho bị đơn anh L trình
bày:
Xin rút yêu cầu phản tố theo đơn yêu cầu phản tố ngày 24/03/2025, cụ thể yêu
cầu là:
- Tuyên vô hiệu hợp đồng đặt cọc ngày 04/8/2022.
- Giải quyết hậu quả pháp của việc tuyên bố Hợp đồng hiệu: Buộc ông
Nguyễn N phải hoàn trả stiền cọc đã nhận 500.000.000 đồng (năm trăm triệu
đồng); Buộc ông Nguyễn N phải bồi thường 500.000.000 (năm trăm triệu đồng).
Tổng cộng ông Nguyễn N phải thanh toán số tiền 1.000.000.000 (một tỷ đồng).
7
Thanh toán một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật.
đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử hủy Hợp
đồng mua bán tài sản giữa bên bán Nguyễn N, Tạ Thị Bích C bên mua Trần Thị
Thúy L do Văn phòng công chứng Hoàng Gia Đoán công chứng số 595, quyền số
02/2022/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/8/2022”.
Tại phiên tòa, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Luật
Cồ Lê H cũng thống nhất ý kiến của anh Võ Bá L: Xin rút toàn bộ yêu cầu phản tố
của bị đơn đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử hủy
“Hợp đồng mua bán tài sản giữa bên bán Nguyễn N, Tạ Thị Bích C bên mua
Trần Thị Thúy L do Văn phòng công chứng Hoàng Gia Đoán công chứng số 595,
quyền số 02/2022/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/8/2022”.
* Theo bản tự khai ngày 28/3/2024, 24/4/2025 người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan Tạ Thị Bích C trình bày:
C anh N là vợ chồng hợp pháp. Anh N thuê diện tích đất 2.768,4 m
2
tại thôn Đồng Hộ An Hải, huyện Sơn, tỉnh Quảng Ngãi để xây dựng nhà hàng
Tân Thành Phát được Ủy ban nhân dân huyện Lý Sơn cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất ngày
28/5/2021.
Đầu tháng 8 năm 2022, anh N bàn bạc với chị về việc chuyển nhượng lại toàn
bộ Nhàng Tân Thành Phát trên đất thuê cho Trần Thị Thúy L với stiền
6.000.000.000 đồng nên chị đồng ý.
Ngày 11/8/2022, vợ chồng L hợp đồng mua bán tài sản do Văn
phòng công chứng Hoàng Gia Đoán công chứng số 595, quyền số 02/2022/TP/CC-
SCC/HĐGD với thỏa thuận chi pcông chứng thuế thu nhập nhân do vợ
chồng chịu và lệ phí trước bạ do bà L chịu.
Nhưng sau khi hợp đồng mua bán trên được kết, L không thanh toán
tiền bán tài sản 06 tỷ đồng cho vợ chồng nên chồng bà không giao bản chính
hợp đồng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản
khác gắn liền với đất cho bà L.
C đồng ý với tất cả các nội dung ý kiến trình bày của ông N. Tất cả ý kiến
của ông N ý kiến của . đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu của
nguyên đơn và không chấp nhận yêu cầu của bị đơn.
* Theo bản tự khai ngày 11/10/2024, ngày 18/4/2025 người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan Phạm Thị Đ trình bày:
Theo giấy chứng nhận đăng kinh doanh hộ kinh doanh Phương Đông do
ông Nguyễn N là đại diện. Ông N Đ góp vốn bằng nhau mỗi người 50%. Tại
8
thời điểm thành lập hộ kinh doanh chị đã góp đủ số tiền 1 tỷ đồng (tương ứng vi
50% vốn). Giữa ông N lập biên bản thỏa thuận góp vốn kinh doanh ngày
10/6/2020. Do đó, tài sản gắn liền với đất tại thửa đất s25, tờ bản đồ s33, diện
tích 2768,4 m
2
tại thôn Đồng Hộ An Hải, huyện Sơn, tỉnh Quảng Ngãi với tên
công trình Nhà hàng Tân Thành Phát gồm các hạng mục (khu Nhà hàng, Khu
bếp, Khu dịch vụ + karaoke) do ông Nguyễn N đứng tên tài sản chung giữa
và ông N.
không biết việc ông N kết hợp đồng mua bán tài sản Nhà hàng Tân
Thành Phát gồm các hạng mục (khu Nhà hàng, Khu bếp, Khu dịch vụ + karaoke)
cho bà Trần Thị Thúy L nên bà không đồng ý với việc ông N bán tài sản cho bà L,
vì ông N chưa bàn bạc việc này với .
Nay ông N yêu cầu hủy hợp đồng mua bán tài sản giữa ông N, C L
do Văn phòng công chứng Hoàng Gia Đoán công chứng ngày 11/8/2022 thì
hoàn toàn đồng ý.
Ngoài ra, được biết L yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng đặt cọc ngày
04/8/2022 thì không có ý kiến gì và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của
pháp luật.
* Theo bản tự khai ngày 07/5/2024, ngày 04/6/2024 người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan Văn phòng công chứng Hoàng Gia Đoán trình bày:
Văn phòng công chứng Hoàng Gia Đoán đề nghị Hội đồng xét xử xem xét với
nội dung trình bày, yêu cầu của nguyên đơn và xử lý theo quy định của pháp luật.
việc đổi tên Văn phòng công chứng Thị Thanh thành Văn phòng
công chứng Hoàng Gia Đoán. Lý do thay đổi công chứng viên hợp danh văn
phòng. Việc đổi tên Văn phòng công chứng không làm thay đổi quyền và nghĩa vụ
của văn phòng. Văn phòng công chứng Hoàng Gia Đoán đã tiếp nhận tiếp
tục thực hiện các ng việc liên quan đến nội dung phát sinh đối với hồ do Văn
phòng công chứng Vũ Thị Thanh Hà đã phát hành.
Đề nghị cho người đại diện Văn phòng công chứng Hoàng Gia Đoán vắng
mặt trong tất cả các buổi làm việc, phiên họp, xét xử của Tòa án.
* Người làm chứng anh Dương Quang V trình bày:
Anh V với anh Đinh Công T không quan hệ họ hàng không biết anh T.
Anh V nghe chú sống tại thành phố Hồ Chí Minh nói sẽ tài xế của chú N
chuyển tiền cho anh V anh T người chuyển tiền cho anh V. Anh V chưa gặp,
nói chuyện với L không biết Trần Thị Thúy L ai. Anh V làm nghề môi
giới bất động sản nên anh có quen biết anh Nguyễn N.
9
Ngày 02/8/2022, anh V nhận hai lần chuyển khoản số tiền 500.000.000
đồng qua số tài khoản 4514205009850 mở tại Ngân hàng Nông nghiệp phát
triển nông thôn Việt Nam. Mục đích nhận tiền của chú N đặt cọc mua nhà hàng
Tân Thành Phát tại thôn Đồng Hộ An Hải, huyện Sơn, tỉnh Quảng Ngãi của
anh Nguyễn N.
Trong ngày 02/8/2022, anh V chuyển khoản số tiền 500.000.000 đồng vào
tài khoản 0271000349132, người thụ hưởng NGUYEN NHAN tại Ngân hàng
Vietcombank. Mục đích chuyển số tiền trên cho anh N để đặt cọc mua nhà hàng
Tân Thành Phát tại thôn Đồng Hộ An Hải, huyện Sơn, tỉnh Quảng Ngãi của
anh Nguyễn N. Số tiền anh V chuyển cho anh N nhận số tiền của chú N nhờ i
xế của chú N chuyển cho anh V.
Anh Nguyễn N không vào hợp đồng đặt cọc, L cũng không vào hợp
đồng đặt cọc, do đó không có hợp đồng đặt cọc giữa anh N và bà L. Đồng thời, chú
N không liên quan gì đến hợp đồng đặt cọc.
Hiện tại, anh V không giữ bản gốc hợp đồng đặt cọc ngày 04/8/2022 hình
ảnh của bản hợp đồng đặt cọc ngày 04/8/2022 của bà L có được thì anh không biết.
Do quá lâu nên anh V không nhớ ai là người soạn thảo hợp đồng và chữ ký, lăn tay
ghi Nguyễn thì anh cũng không nhớ ai ký.
Theo văn bản số 948/STP-HCTP&BTTP ngày 18/6/2024 của Sở Tư pháp tỉnh
Quảng Ngãi cung cấp: Ngày 16/8/2022, Sở pháp nhận được hồ sơ đề nghị thay
đổi nội dung đăng ký hoạt động (thay đổi tên gọi và trưởng văn phòng công chứng)
của Văn phòng công chứng Vũ Thị Thanh Hà thành Văn phòng công chứng Hoàng
Gia Đoán. Việc thay đổi tên văn phòng công chứng không làm thay đổi quyền
nghĩa vụ của văn phòng công chứng theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 17
Luật Công chứng năm 2014 khoản 2 Điều 18 Thông số 01/2021/TT-BTP
ngày 03/02/2021 của Bộ Tư pháp.
Theo văn bản số 3809/UBND ngày 18/9/2024 của Ủy ban nhân dân huyện Lý
Sơn (nay là Đặc khu Sơn) cung cấp: Về thông tin về thửa đất: Thửa đất số 25,
tờ bản đồ số 33, diện tích 2.768,4 m². Địa chỉ thửa đất: Thôn Đông An Hải, huyện
Sơn, UBND huyện cho ông Nguyễn N thuê đất để sử dụng vào mục đích sản
xuất kinh doanh dịch vụ (SKC) đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất cho ông N. Thời hạn thuê: 8 năm 9 tháng,
tính từ tháng 7/2020 đến tháng 3/2029. Tài sản trên đất: Khu nhà hàng
karaoke, được UBND huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản gắn liền
với đất cho ông Nguyễn N. Ông N đứng tên chủ sở hữu, sau đó góp vốn 50% cho
Phạm Thị Đ đthành lập hộ kinh doanh. Về việc chuyển nhượng: Ông Nguyễn
N muốn chuyển nhượng tài sản gắn liền với đất cho người khác, song vì thửa đất là
10
đất thuê trả tiền thuê đất hằng năm nên việc chuyển nhượng phải được sđồng ý
của người cùng góp vốn (bà Phạm Thị Đ) và phải thực hiện theo đúng quy định
pháp luật. Căn cứ Thông báo số 13/TB-TN&MT ngày 26/10/2020 của Phòng Tài
nguyên và Môi trường: muốn chuyển nhượng tài sản gắn liền với đất thuê trả tiền
thuê đất hàng năm phải thỏa thuận với đối tác góp vốn tuân thủ Điều 179 Luật
Đất đai 2013.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 1- Quảng Ngãi phát
biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư Hội đồng xét xử đã
thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn, người đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn, bị đơn, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn,
người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn, người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan, người làm chứng đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Vviệc giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều
35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147 BLTTDS; Căn cứ các Điều 117, 123, 130,
điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 423, 427, 430, 433, 434, 440, 328 BLDS năm 2015;
Căn cứ khoản Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội,
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Hủy Hợp đồng mua bán tài sản giữa bên bán ông Nguyễn N, Tạ Thị Bích
C và bên mua Trần Thị Thúy L do Văn phòng công chứng Thị Thanh
công chứng số 595; quyển số 02/2022/TP/CC- SCC/HĐGD ngày 11/08/2022.
Đình chỉ yêu cầu phản tố của bị đơn:
1.Tuyên vô hiệu hợp đồng đặt cọc ngày 04/8/2022.
2. Giải quyết hậu quả pháp của việc tuyên bố Hợp đồng hiệu. Buộc
ông Nguyễn N phải hoàn trả số tiền cọc đã nhận 500.000.000 đồng (năm trăm
triệu đồng). Buộc ông Nguyễn N phải bồi thường 500.000.000 (năm trăm triệu
đồng). Tổng cộng ông Nguyễn N phải thanh toán số tiền 1.000.000.000 (một tỷ
đồng .
Đương sự chịu án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
- Về xác định quan hệ tranh chấp: Giữa nguyên đơn bị đơn phát sinh quan
hệ tranh chấp từ hợp đồng mua bán tài sản để chuyển nhượng tài sản gắn liền đất
(Hợp đồng mua bán tài sản- ngày 11/8/2022 - Bút lục 09-12), bđơn yêu cầu phản
tố để trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn về hợp đồng đặt cọc ngày
11
04/8/2022 đchuyển nhượng quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất tại thửa đất
số 25, tờ bản đồ s33, diện tích 2768,4 m
2
tại thôn Đồng Hộ An Hải, huyện
Sơn, tỉnh Quảng Ngãi nên Tòa án xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án này
“Tranh chấp hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất” thuộc tờng hợp được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung).
- Về thẩm quyền vụ án: Đối tượng tranh chấp của hai hợp đồng trên là bất
động sản trên thửa đất số 25, tờ bản đồ số 33, diện tích 2768,4 m
2
tại thôn Đồng
Hộ An Hải, huyện Sơn (nay Đặc khu Sơn), tỉnh Quảng Ngãi; theo quy
định tại điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung), vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lý Sơn, tỉnh
Quảng Ngãi (nay là Tòa án nhân dân khu vực 1 – Quảng Ngãi).
Theo Nghị quyết số 81/2025/UBTVQH ngày 27/6/2025 của Ủy ban Thường
vụ Quốc Hội về việc thành lập Tòa án nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân khu vực;
quy định phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân tỉnh, Tòa án nhân
dân khu vực thì Tòa án nhân dân Khu vực 1 Quảng Ngãi kế thừa quyền, nghĩa
vụ, trách nhiệm của Tòa án nhân dân huyện Sơn. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều
35 điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nhân dân Khu vực 1 – Quảng Ngãi.
- Tại phiên tòa hôm nay, Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
Trần Thị H vắng mặt đơn xin xét xử vắng mặt; người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan: Tạ Thị Bích C Phạm Thị Đ vắng mặt và đơn xin xét xử
vắng mặt; người làm chứng vắng mặt phiên tòa đơn xin xét xử vắng mặt.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228; khoản 2 Điều 229 Bộ luật Tố
tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.
[2.] Về nội dung vụ án:
- Ti phiên tòa, ngưi đại din cho b đơn xin rút toàn bộ yêu cu phn t ca
b đơn và đồng ý theo yêu cu của nguyên đơn
[3] Tại đơn khởi kiện, c bản khai, lời trình bày của đương sự, tại phiên a
hôm nay, các đương sđều thừa nhận nguyên đơn và bị đơn “Hợp đồng
mua tài sản ngày 11/8/2022”; nguyên đơn chưa thực hiện nghĩa vụ như giao tài
sản ng bản chính giấy tờ có liên quan cho bị đơn bị đơn chưa giao stiền
400.000.000 đồng giá mua bán tài sản trong hợp đồng cho nguyên đơn.
Ông N và bà L thừa nhận không trực tiếp ký vào hợp đồng đặt cọc và việc anh
V trình bày “chú Nam không liên quan gì đến hợp đồng đặt cọc”.
12
Đây tình tiết, sự kiện các đương sự, người đại diện của đương sự thừa
nhận tại phiên a nên thuộc tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy
định tại Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.
[4] Trên sở tài liệu trong hồ vụ án nhận thấy vào ngày 11/8/2022,
giữa vchồng ông Nguyễn N, Tạ Thị Bích C Trần Thị Thúy L có ký hợp
đồng mua bán tài sản được văn phòng công chứng Thị Thanh (nay
Văn phòng công chứng Hoàng Gia Đoán) công chứng số công chứng 595, quyển
sổ 02/2022/TP/CC-SCC/HĐGD. Xét thấy việc hợp đồng mua bán tài sản vào
ngày 11/8/2022 thật. Các bên tự nguyện giao kết. Tại thời điểm các bên
kết đều năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật; giữa hai bên đã thỏa
thuận là bên bán chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản (là tài sản trên đất gồm Khu
nhà hàng, khu bếp, khu dịch vụ + karaoke đã được UBND huyện cấp Giấy chứng
nhận quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất cho ông Nguyễn N) cho bên mua và bên
mua trả tiền (400.000.000 đồng) cho bên bán. Nhưng các bên đã không thực hiện
đúng cam kết (Điều 2, 3) trong hợp đồng. Cthể là ông N chưa bàn giao tài sản
cho bà L và bà L chưa trả tiền cho ông N.
Tuy nhiên theo lời trình bày của nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan là Phạm Thị Đ, ng như UBND huyện Sơn cung cấp thông tin: Tài
sản gắn liền trên đất Khu Nhà hàng; Khu bếp Khu Dịch vụ + Karaoke, được
UBND huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sử dụng đất, tài sản
gắn liền với đất, ông Nguyễn N đứng tên; Nhưng, tài sản này ông Nguyễn N góp
vốn là 50% và bà Phạm Thị Đ 50% vốn, thành lập hộ kinh doanh. Khi ký hợp đồng
mua bán tài sản với bà L chưa sđồng ý của Phạm Thị Đ (người góp
50% vốn với ông N) ảnhởng nghiêm trọng đến quyền lợi của Đ nên Đ
không đồng ý bán tài sản. Do đó, ông Nguyễn N chỉ quyền định đoạt ½ quyền
sở hữu tài sản nêu trên, nhưng ông vợ chồng ông N lập hợp đồng chuyển nhượng
tài sản trên là vi phạm điều cấm của pháp luật. Căn cứ Điều 123, 130 BLDS, giao
dịch dân sự trên bị vô hiệu một phần. Như vậy, ông N bà L đã vi phạm nghiêm
trọng nghĩa vụ của mình dẫn đến c bên không đạt được mục đích việc giao kết
hợp đồng.
Do đó, nguyên đơn u cầu hủy hợp đồng mua bán tài sản giữa bên bán ông
Nguyễn N, Tạ Thị Bích C bên mua Trần Thị Thúy L do Văn phòng công
chứng Hoàng Gia Đoán công chứng số 595, quyền số 02/2022/TP/CC-SCC/HĐGD
ngày 11/8/2022.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện cho bị đơn anh L đồng ý theo yêu cầu
của nguyên đơn hủy hợp đồng mua bán tài sản giữa bên bán ông Nguyễn N,
Tạ Thị Bích C và bên mua Trần Thị Thúy L do Văn phòng công chứng Hoàng Gia
Đoán công chứng số 595, quyền số 02/2022/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/8/2022.
13
người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Luật Cồ H
cũng thống nhất ý kiến của anh L đề nghị Hội đồng xét xử hủy “Hợp đồng
mua bán tài sản giữa bên bán Nguyễn N, Tạ Thị Bích C và bên mua Trần Thị Thúy
L do Văn phòng công chứng Hoàng Gia Đoán công chứng số 595, quyền số
02/2022/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/8/2022”.
Xét người đại diện cho bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
bị đơn đồng ý theo yêu cầu của nguyên đơn tự nguyện. Tuy nhiên, tại phiên a
do người đại diện cho nguyên đơn vắng mặt nên không thể ghi nhận sự thỏa thuận
của đương sự mà Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn v
việc: Hủy hợp đồng mua bán tài sản giữa bên bán ông Nguyễn N, Tạ Thị Bích
C bên mua Trần Thị Thúy L do Văn phòng công chứng Hoàng Gia Đoán công
chứng số 595, quyền số 02/2022/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/8/2022.
[5] Xét về yêu cầu phản tố của bị đơn: Đề nghị Tòa án tuyên hiệu hợp
đồng đặt cọc ngày 04/8/2022 và giải quyết hậu quả pháp của việc tuyên bố Hợp
đồng hiệu: Buộc ông Nguyễn N phải hoàn trả số tiền cọc đã nhận
500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng); Buộc ông Nguyễn N phải bồi thường
500.000.000 (năm trăm triệu đồng). Tổng cộng ông Nguyễn N phải thanh toán số
tiền 1.000.000.000 (một tỷ đồng). Thanh toán một lần ngay khi án có hiệu lực pháp
luật.
Tuy nhiên, tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền cho bị đơn anh
L xin rút toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn đã nêu trên và người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của bị đơn cũng đồng ý kiến trên.
Xét người đại diện cho bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn tự
nguyện nên Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ yêu cầu phản tố của bị đơn.
[7] Về án phí: Do u cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên cần buộc bị
đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố
tụng dân sự. Căn cứ các quy định tại khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết
326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016. Hội đồng xét xxác định bị đơn phải chịu
án phí không giá ngạch đối với yêu cầu hủy hợp đồng mua bán tài sản của
nguyên đơn được Tòa án chấp nhận. Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn đã rút nên
bị đơn không phải chịu án phí phần này. Trong vụ án này, bị đơn thuộc trường hợp
người cao tuổi và có đơn đề nghị miễn án phí nên được miễn toàn bộ án phí dân sự
sơ thẩm. Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn.
[8] Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Nguyên đơn tự nguyện chịu tiền xem
xét thẩm định tại chỗ và đã chi xong.
[9] Về chi phí giám định: Bị đơn đã tạm ứng chi phí giám định 8.000.000
đồng nhưng không thực hiện được việc giám định nên không phát sinh chi phí
đã hoàn trả lại cho bị đơn số tiền này theo biên bản hoàn trả ngày 26/9/2025.
Vì các lẽ trên,
14
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; Điều 35, 39, 92, 147, 157, 227, 228, 229;
khoản 2 Điều 217, khoản 2 Điều 244, 235, 266, 271 Điều 273 Bộ luật tố tụng
dân sự;
- Căn cứ Điều 123, 130 423, 427 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Khoản 1 Điều 12, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn N: Hủy “Hợp
đồng mua bán tài sản giữa bên bán ông Nguyễn N, Tạ Thị Bích C bên mua
Trần ThThúy L do Văn phòng công chứng Hoàng Gia Đoán công chứng số
595, quyền số 02/2022/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/8/2022”.
2. Đình chỉ yêu cầu phản tố của bị đơn Trần Thị Thúy L: Về việc đề ngh
Tòa án tuyên vô hiệu hợp đồng đặt cọc ngày 04/8/2022 và giải quyết hậu quả pháp
của việc tuyên bố Hợp đồng hiệu: Buộc ông Nguyễn N phải hoàn trả số tiền
cọc đã nhận là 500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng); Buộc ông Nguyễn N phải
bồi thường 500.000.000 (năm trăm triệu đồng). Tổng cộng ông Nguyễn N phải
thanh toán số tiền 1.000.000.000 (một tỷ đồng). Thanh toán một lần ngay khi án có
hiệu lực pháp luật.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
3.1. Bị đơn được miễn toàn b tiền án phí dân sự sơ thẩm.
3.2. Hoàn trả lại cho nguyên đơn ông Nguyễn N số tiền 300.000 đồng (ba trăm
nghìn đồng) tạm ứng án phí mà ông N đã nộp tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí
Tòa án số 0000708 ngày 06/03/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Sơn
(nay là Phòng Thi hành án dân sự khu vực 1- Quảng Ngãi).
5. Vquyền kháng cáo: Các đương sự quyền kháng cáo trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên toà quyền kháng cáo
trong hạn 15 ngày ktừ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo
quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành
án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
15
Nơi nhận:
- TAND tnh Qung Ngãi;
- VKSND khu vc 1-Qung Ngãi;
- THADS tnh Qung Ngãi;
- Đương sự, người đại din;
- Người BVQ&LIHP;
- Lưu hồ sơ vụ án.
16
Tải về
Bản án số 54/2025/DS-ST Bản án số 54/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 54/2025/DS-ST Bản án số 54/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất