Bản án số 51/2021/HS-ST ngày 04/03/2021 của TAND Q. Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 51/2021/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 51/2021/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 51/2021/HS-ST ngày 04/03/2021 của TAND Q. Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh về tội tàng trữ trái phép chất ma túy |
---|---|
Tội danh: | 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND Q. Thủ Đức (TAND TP. Hồ Chí Minh) |
Số hiệu: | 51/2021/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 04/03/2021 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 51/2021/HS-ST NGÀY 04/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 04 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án Nhân dân Thành phố Thủ Đức, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 08/2021/TLST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:
Phạm Thị C, sinh năm: 1997, tại tỉnh Sóc Trăng; Thường trú: A, xã B, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; Cư trú: A đường B, khu phố C, phường D, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: buôn bán; Trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: không rõ và con bà: Lưu Thị T; Bị cáo không có chồng, có 01 con sinh năm 2017; Tiền án: không; Tiền sự: không; bị bắt tạm giam từ ngày 21/10/2020. (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lúc 16 giờ 20 phút ngày 25/5/2020, Công an quận Thủ Đức kiểm tra hành chính nhà trọ số 69 đường Gò Dưa, khu phố 4, phường Tam Bình, quận Thủ Đức phát hiện bắt quả tang thu giữ của C: 01 gói nylon màu xanh trắng đỏ bên ngoài ghi chữ “ Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa kỳ” bên trong chứa tinh thể không màu được thu giữ trong lòng bàn tay phải của Phạm Thị C. C khai là ma túy nên đã đưa về Công an phường Tam Bình, quận Thủ Đức lập biên bản bắt người phạm tội quả tang niêm phong vật chứng để giám định.
Kết luận giám định số 892 ngày 01/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 01 gói nylon có chứa tinh thể không màu được bỏ trong 01 gói nylon màu xanh trắng đỏ bên ngoài ghi chữ “ Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa kỳ” thu giữ của C là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, khối lượng 0,5947 gam.
Phạm Thị C khai nhận là người nghiện ma túy, đã sử dụng ma túy từ tháng 01/2020. Khoảng 16 giờ ngày 25/5/2020, C mua ma túy trực tiếp của một thanh niên tên Thanh (không rõ lai lịch) ở khu B, Chợ Đầu mối nông sản Thủ Đức thuộc phường Tam Bình, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 450.000 đồng rồi vừa đem về nhà trọ số 69 đường Gò Dưa, khu phố 4, phường Tam Bình, quận Thủ Đức để dành sử dụng thì bị kiểm tra và bắt quả tang.
Trương Văn Tân (làm nghề thợ xăm) khai nhận sống với C như vợ chồng tại phòng trọ trên. Quá trình chung sống như vợ chồng, C không rủ Tân sử dụng ma túy, khi C sử dụng xong ma túy thì Tân thấy trong chai còn ma túy do C sử dụng còn dư nên Tân mới sử dụng. Đối với số ma tuý bị bắt quả tang, việc C mua ma tuý của ai, mua bao nhiêu Tân không rõ và cũng không hùn tiền cùng mua ma tuý.
Nguyễn Văn Lai khai sử dụng ma túy khoảng 01 tháng nay, ngày 25/5/2020 Lai đến phòng trọ của C để Tân xăm hình (Tân làm nghề thợ xăm) và có sử dụng ma túy tại phòng trọ của C (sử dụng khi xăm mình cho bớt đau), ma túy do Lai nhờ một người quen ngoài xã hội tên Cường (không rõ lai lịch) mua dùm với giá 200.000 đồng. Lai không rủ hay mời C sử dụng ma túy và C cũng không biết và cũng không biết Lai sử dụng ma tuý.
Vật chứng của vụ án:
- 01 gói niêm phong ghi số vụ 892 có chữ ký của Giám định viên Phan Hoàng Trạc, bên trong là ma túy còn lại sau giám định;
- 01 bình tự chế để sử dụng ma túy;
- 01 điện thoại di động hiệu OPPO số sim 0928308283 và 0385381447.
[2] Cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 11/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thủ Đức đã truy tố Phạm Thị C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa:
Bị cáo Phạm Thị C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thủ Đức đã truy tố; bị cáo thành khẩn khai báo, bày tỏ thái độ ăn năn hối cải.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thủ Đức phát biểu ý kiến giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Phạm Thị C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đồng thời đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù.
Bị cáo không tranh luận về hành vi phạm tội, lời sau cùng bị cáo xin lỗi gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung: Căn cứ các tài liệu chứng cứ thu thập được và kết quả tranh luận tại phiên tòa có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo như sau: Khoảng 16 giờ 20 phút ngày 25/5/2020, tại nhà trọ số 69 đường Gò Dưa, khu phố 4, phường Tam Bình, quận Thủ Đức, Công an quận Thủ Đức kiểm tra hành chính bắt quả tang Phạm Thị C có hành vi tàng trữ trái phép ma túy nhằm mục đích để sử dụng.
Căn cứ kết luận giám định số 892/KLGĐ ngày 01/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: tinh thể không màu trong 01 gói nylon màu trắng, đỏ, xanh được niêm phong bên ngoài ghi chữ “ Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa kỳ” thu giữ của C là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, khối lượng 0,5947 gam.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ kết luận bị cáo Phạm Thị C đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy nên cần xử phạt bị cáo một hình phạt nghiêm mới đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa.
Xét lời khai của Phạm Thị C trong quá trình điều tra xác định C không có tổ chức chuẩn bị ma tuý, dụng cụ chơi ma tuý hay rủ Nguyễn Văn Lai và Trương Văn Tân cùng sử dụng ma tuý chung là phù hợp với lời khai của những người này nên không có cơ sở xử lý Phạm Thị C về hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Quá trình tố tụng, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, đang nuôi con nhỏ nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, giảm cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Đồng thời cần phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền để sung quỹ Nhà nước.
Đối với người thanh niên tên Thanh bán ma túy cho C đến nay chưa xác định được nhân thân lai lịch. Do đó, khi nào xác định sẽ xử lý sau.
Đối với Nguyễn Văn Lai là người nghiện. Cơ quan Công an Thành phố Thủ Đức đã ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và thông báo về địa phương quản lý.
Đối với Trương Văn Tân, Công an Thành phố Thủ Đức đã chuyển cho Công an phường Linh Chiểu lập hồ sơ xử lý theo quy định.
[4] Về xử lý vật chứng:
- 01 điện thoại di động hiệu OPPO số sim 0928308283 và 0385381447 thu của C do không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.
- Đối với 01 bình tự chế để sử dụng ma túy cần tịch thu tiêu huỷ;
- Đối với số vật chứng là ma túy còn lại sau giám định không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1- Tuyên bố bị cáo Phạm Thị C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2- Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo Phạm Thị C: 02 (hai) năm tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 21/10/2020.
Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000 (năm triệu) đồng để tịch thu sung quỹ Nhà nước.
3- Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy: 01 bình tự chế để sử dụng ma túy; 01 gói niêm phong ghi vụ số 892 có chữ ký của giám định viên Phan Hoàng Trạc bên trong là ma tuý còn lại sau giám định;
Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu OPPO số sim 0928308283 và 0385381447.
(Theo phiếu nhập kho số NKT2021/071 ngày 29/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức (nay là thành phố Thủ Đức), Thành phố Hồ Chí Minh).
4- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!