Bản án số 50/2023/HS-PT ngày 27-07-2023 của TAND tỉnh Hậu Giang về tội cưỡng đoạt tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
  • 50-2023-HS-PT-HAU-GIANG

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

  • 50-2023-HS-PT-HAU-GIANG

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 50/2023/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 50/2023/HS-PT ngày 27-07-2023 của TAND tỉnh Hậu Giang về tội cưỡng đoạt tài sản
Tội danh: 135.Tội cưỡng đoạt tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hậu Giang
Số hiệu: 50/2023/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/07/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Nguyễn Văn N phạm tội cưỡng đoạt tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HẬU GIANG
Bản án số: 50/2023/HS-PT
Ngày 27 - 7 - 2023
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Hoàng Lâm
Các Thẩm phán: Ông Võ Thái Sơn
Ông Hồ Hữu Thắng
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Hiền - Thư a án, Tòa án nhân
dân tỉnh Hậu Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang tham gia phiên tòa:
Ông Hứa Minh Thạnh - Kiểm sát viên.
Ngày
27 tháng 7 năm 2023 tại
Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xét xử phúc
thẩm công khai vụ án hình sphúc thẩm thụ lý số: 38/2023/TLPT-HS ngày 16
tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo
Nguyễn Văn N do kháng cáo của
bị cáo đối
với Bản án hình sự thẩm số: 13/2023/HS-ST ngày 17 tháng 4 năm 2023 của
Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Hậu Giang.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Văn N; sinh ngày 18/01/1995; tại thành phố N, tỉnh Hậu Giang;
nơi trú: Khu V, phường H, thành phố N, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: Mua
bán; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc
tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn Q Nguyễn Thị Ấ; vợ Nguyễn Thị
Ngọc T có 02 người con (lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2019); tiền án, tiền
sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 15/11/2022 đến ngày 18/01/2023 cho bảo lĩnh
đến nay; có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hồ Quốc T1 - Luật sư của Văn phòng L
thuộc Đoàn luật sư tỉnh H; có mặt.
Ngoài ra, vụ án còn có 02 bị cáo khác; bị hại và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan, nhưng không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kng nghị nên
không triệu tập.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hồvụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Nguyễn Văn N nhiều lần mua bán gà với Nguyễn Chí N1 qua mạng
hội ZALO bằng tài khoản “Huỳnh Hậu G”, đến giữa tháng 8/2022 N mua
của N1 có một con không đạt yêu cầu, N muốn đổi lại nhưng N1 không cho đổi,
nên N nảy sinh ý định chiếm đoạt của N1. Vào ngày 03/9/2022, N dùng tài
khoản ZALO khác tên “Lễ” đặt mua 04 con gà của N1 tổng số tiền 04 con
19.500.000 đồng. Bị cáo N đã chuyển khoản đặt cọc 1.000.000 đồng hẹn ngày
04/9/2022 sẽ giao nhận gà, mục đích của bị cáo N là khi nhận gà sẽ chiếm đoạt gà
không trả tiền cho N1. Tối ngày 03/9/2022 trong lúc uống nước với H H1 thì
N kể việc mua bán với N1 nhiều lần, con không đạt yêu cầu nhưng
N1 không cho đổi lại, nên đã dùng tài khoản khác đặt mua 04 con gà của N1, mục
đích khi nhận sẽ chiếm đoạt không trả tiền, N nhờ H1 H ngày hôm sau
đi cùng N để nhận gà.
Sáng ngày 04/9/2022, khi cả ba bị cáo cùng ở phòng trọ của H thì N có nói
với H1 H khi đi nhận sẽ mang theo một con dao tự chế để đe dọa cưỡng
đoạt bắt gà, nếu bán được thì chia tiền cả ba cùng sử dụng, H1 H cùng thống
nhất với N. Sau đó N đi lấy 01 con dao tchế (dài 57cm; cán bằng gỗ 17cm, lưỡi
kim loại màu bạc dài 40 cm; bản rộng nhất 7cm, mũi nhọn và một lưỡi sắc bén)
mang đến phòng trọ của H để thực hiện việc cưỡng đoạt bắt gà. Tuy nhiên, chiều
ngày 04/9/2022 N bận công việc nên không thực hiện việc giao nhận dời
lại vào ngày 05/9/2022.
Khoảng 10 giờ ngày 05/9/2022 H điều khiển xe YAMAHA EXCITER biển
kiểm soát 95B1-559.26 chở Nhớ đến phòng trọ của H, N điện thoại cho người
giao gà xác định địa điểm giao gà là tại cầu F L, N tiếp tục điện thoại cho ông
Thanh C, nhờ ông C đến cổng sau nhà máy đường nhận gà dùm N (ông C không
biết việc N có ý định cưỡng đoạt gà), sau đó N liên lạc bị cáo H1 cùng đi. H điều
khiển xe mô tô biển kiểm soát 95B1-559.26 chở N ngồi phía sau cầm con dao tự
chế, N dùng một cái áo quấn dao lại giấu trong áo mình để người khác không nhìn
thấy và chạy đi đến nhà trọ R Khi đến cổng sau nhà máy Đ thì gặp ông C, H dừng
xe lại để N qua đi cùng xe với ông C, đồng thời N đưa con dao lại cho H1 cầm.
Ông C chở N, H chở H1 đến điểm hẹn giao nhận gà. Khi đến nơi thì ông C đậu
xe cặp lề lộ cùng với N, còn xe bị cáo H và H1 thì N kêu chạy xe đậu vào bãi vật
liệu xây dựng cách đó khoảng hơn 10 mét, nhằm để xe giao thấy ít người mà
dừng lại xuống giao gà. Nhớ căn dặn khi nào người giao gà mang gà xuống lộ hết
3
để kiểm tra thì H và H1 mới đi ra đe dọa bắt gà, chỉ cần cầm dao đe dọa bắt
không gây thương tích cho người giao gà.
Đến khoảng 11 giờ cùng ngày xe tải giao gà đến địa điểm, đi trên xe có tài
xế Nguyễn Tấn K Nguyễn Thanh C1 nhân viên của C2 xe tải Minh T2 đi
giao 04 con gà trống để trong bốn thùng carton cho N. Khi C1K xuống xe m
thùng xe, đưa bốn con xuống lề lộ cho kiểm tra thì H1 cầm dao tự chế giấu
trong áo đi bộ đến gần vị txe tải. Lúc này bị cáo N kêu C1 điện thoại cho N1 để
bị cáo N nói chuyện với N1, thông báo cho N1 biết N mua của N1 nhiều lần
con giao không đạt yêu cầu đổi không được, giờ Nhớ bắt này của N1
muốn lấy gà lại thì đến N gặp N nói chuyện đàng hoàng mới trả tiền; đồng thời N
đưa cho K Cần 1.000.000 đồng để uống phê, mục đích để giao cho N.
Tuy nhiên, K C1 không đồng ý nhận tiền không chịu giao gà. Thấy vậy b
cáo H1 cầm con dao tự chế đã vứt bỏ chiếc áo quấn con dao đi đến vị tthùng gà
và nói “bắtđi đợi gì nữa, đợi công an đến lu bu”, lúc này C1 và K không dám
chống cự nên lùi ra xa vị trí bốn thùng gà, H1 vừa nói xong thì N đến lấy 02 thùng
gà đưa cho ông C, N điều khiển xe chở ông C, H1 đến lấy 02 thùng gà còn lại n
xe H chở về để gà ở trong phòng trọ của H. Đến 15 giờ cùng ngày, N đến lấy 04
thùng gà để mang đi bán, N đã mang 03 con gà trong số 04 con gà đã chiếm đoạt
đến thành phố R, tỉnh Kiên Giang tỉnh Bến Tre bán được 16.000.000 đồng, cho
những người Nhớ không biết được nhân thân lai lịch. Anh C1 sau khi bị nhóm
của N cưỡng đoạt gà đến Cơ quan Công an phường H trình báo sự việc, sau đó N
trả lại cho N1 một con gà chưa bán được bcáo N đã bán điện thoại N dùng
để đặt gà của N1 cho một người lạ mặt và lấy tiền khắc phục thiệt hại cho N1 với
tổng số tiền là 20.000.000 đồng.
Theo Kết luận định giá tài sản số 27/KL-ĐGTS ngày 23/12/2022 của Hội
đồng định giá xác định: 01 con trống loại Điều trọng lượng 3,1kg; 01 con
trống loại Khét bông trọng lượng 3,2kg; 01 con trống loại gà Bướm trọng
lượng 3,1kg; 01 con trống loại Xanh que trọng lượng 3kg với giá 961.000
đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 13/2023/HS-ST ngày 17 tháng 4 năm 2023
của Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Hậu Giang quyết định:
Căn cứ vào các Điều 268, Điều 269 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội Cưỡng đoạt tài sản.
Căn cứ khoản 1 Điều 170; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật
Hình sự 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N
4
15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn phạt tính từ ngày bị cáo chấp hành án, được
trừ thời gian tạm giam từ ngày 15/11/2022 đến ngày 18/01/2023.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên vtội danh, hình phạt cho 02 bị cáo
không kháng cáo; phần xử lý vật chứng; án phí và quyền kháng cáo theo quy định
của pháp luật.
Ngày 28/4/2023, bị cáo Nguyễn Văn N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt
và hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo N thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, giữ
nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang tại phiên
tòa: Bản án thẩm xét xbcáo phạm tội Cưỡng đoạt tài sản xử phạt 15
(mười lăm) tháng tù là đúng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, phù hợp quy
định pháp luật. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo, nhưng
không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Đnghị Hội đồng xét xcăn cứ
vào điểm a khoản 1 Điều 355 Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp
nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn N xin giảm nhẹ hình phạt hưởng án
treo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Trình bày lời bào chữa: Bị cáo không phát biểu bào chữa.
Phát biểu bào chữa cho bị cáo: Người bào chữa thống nhất với tội danh và
điều luật như bản án sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo. Tại phiên tòa bị cáo đã thật
sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có bồi thường khắc phục toàn bộ hậu quả;
được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; gia đình bị cáo có thân nhân là người có công
với Cách mạng. Xét bcáo nhiều tình tiết giảm nhẹ, đề nghị Hội đồng xét xử
áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Văn N đơn kháng cáo. Xét
đơn kháng cáo của bcáo phù hợp với quy định tại c điều 331, 332, 333 Bộ luật
Tố tụng hình sự, nên Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét đơn kháng cáo của bị
cáo theo thủ tục phúc thẩm.
[2]. Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn N thừa nhận hành vi phạm tội như
cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố và bản án thẩm. Đối chiếu lời khai của bị
cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo đồng phạm, phợp với lời khai của người
5
bị hại các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ
sở để kết luận: Vào khoảng 11 giờ ngày 05/9/2022, bị cáo Nguyễn Văn N cùng
các bị cáo Trần Thanh H2, Phạm Huy H3 đã hành vi đe doạ dùng lực như
dùng dao tự chế doạ đối với các bị hại Nguyễn Tấn K, Nguyễn Thanh C1 để
cưỡng đoạt 04 (bốn) con gà trống của K và C1 có trách nhiệm quản lý. Với hành
vi các bị cáo thực hiện, Tòa án cấp thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Văn N
02 bị cáo khác không kháng cáo Trần Thanh H2, Phạm Huy H3 phạm tội Cưỡng
đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo của bị cáo, Hội
đồng xét xử xét thấy: Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn N gây ảnh hưởng xấu đến
tình hình trật tự xã hội tại địa phương, bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản
của người khác được pháp luật bảo vệ. Trong vụ án này, bị cáo N người khởi
xướng, rủ trực tiếp thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nên bị cáo N phải
chịu mức hình phạt nghiêm khắc hơn các bị cáo H2H3. Do đó, cần cách ly bị
cáo N ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục đối với bị cáo
phòng ngừa chung cho xã hội. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp thẩm
cho bị cáo N hưởng các tình tiết giảm nhquy định tại điểm b, s khoản 1 khoản
2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, áp dụng mức hình phạt 15 tháng tù là phù hợp. Bị cáo
kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo nhưng không xuất trình
được tài liệu, chứng cứ nào mới so với chứng cứ đã được xem xét áp dụng tại bản
án sơ thẩm. Ngoài ra, xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, vai trò của bcáo N
là người khởi xướng, rủ rê người khác thực hiện hành vi phạm tội, nên không có
sđể Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt xin
hưởng án treo của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt tù của bản án sơ thẩm.
[4]. Với những nhận định như đã nêu trên, Hội đồng xét xử thống nhất với
đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang tại phiên tòa, giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
[5]. Đối với các quyết định khác của bản án thẩm do không bị kháng
cáo, kháng nghị hoặc không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị, nên Hội đồng
xét xử không xem xét.
[6]. Án phí hình sự phúc thẩm: Buộc bị cáo chịu theo quy định của pháp
luật, do kháng cáo không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;
6
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn N xin giảm nhẹ hình
phạt và hưởng án treo. Giữ nguyên bản án sơ thẩm:
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội Cưỡng đoạt tài sản.
Căn cứ khoản 1 Điều 170; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình
sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 15 (mười m) tháng tù. Thời hạn phạt
tính từ ngày chấp hành án. Bị cáo N được khấu trừ thời hạn đã bị tạm giam từ
ngày 15/11/2022 đến ngày 18/01/2023 khi thi hành án.
2. Án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng
hình sự. Điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 quy định về mức án phí, lệ phí Toà án.
Buộc bị cáo Nguyễn Văn N chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).
3. Các quyết định khác của bản án thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị đã hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
4. Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày
27/7/2023).
Nơi nhận:
- Bị cáo;
- VKSND tỉnh Hậu Giang;
- Sở Tư pháp tỉnh Hậu Giang;
- CA tỉnh Hậu Giang (PV06);
- TAND, VKSND, CQĐT, Chi cục
THADS thành phố N;
- Công an xã nơi bị cáo cư trú;
- Lưu: HSVA; THS; VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Phạm Hoàng Lâm
Tải về
50-2023-HS-PT-HAU-GIANG 50-2023-HS-PT-HAU-GIANG

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

50-2023-HS-PT-HAU-GIANG 50-2023-HS-PT-HAU-GIANG

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất