Bản án số 49/2023/HS-ST ngày 18/08/2023 của TAND Quận 11, TP. Hồ Chí Minh về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 49/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 49/2023/HS-ST ngày 18/08/2023 của TAND Quận 11, TP. Hồ Chí Minh về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tội danh: 140.Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Quận 11 (TAND TP. Hồ Chí Minh)
Số hiệu: 49/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 18/08/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 49/2023/HS-ST NGÀY 18/08/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 18 tháng 8 năm 2023, tại Phòng xử A trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 45/2023/TLST-HS ngày 19 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2023/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Khưu Nhật L; sinh năm 1997 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: 311/2C đường Liên tỉnh 5,Phường 5, quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 363/5A tổ 5, ấp 1, Xã Phú Xuân, Huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Khưu Ngọc L và bà Lê Thị Thanh Tr; tiền án: Không, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 06/4/2023; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Trương Huỳnh Phú H, sinh năm 1986; địa chỉ: 110/6 O, Phường A, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Vũ Mạnh T, sinh năm: 1986; địa chỉ: 854 H, Phường T, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh(vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00 ngày 03/4/2023, anh Trương Huỳnh Phú H là chủ tiệm điện thoại địa chỉ 110/6 O, Phường 5, Quận 11 nhận được đơn hàng của anh Nguyễn Huy H đặt mua 01 điện thoại di động hiệu IPhone 13 Pro Max.

Anh H sử dụng ứng dụng Be đặt vận chuyển điện thoại trên. Khoảng 17 giờ 40 phút cùng ngày, Khưu Nhật L nhận được thông báo từ ứng dụng Be đơn hàng giao 01 điện thoại di động hiệu IPhone 13 Promax đến địa chỉ số 21/35 B, Phường A, quận Tân Bình. L điều khiển xe mô tô hiệu Airblade, biển số 59L2- X đến tiệm bán điện thoại của anh H. Anh H kêu anh Nguyễn Ngọc Ph đưa 01 gói hàng, bên ngoài có băng keo màu vàng cho L . Anh Ph cho L biết bên trong gói hàng là 01 điện thoại di động hiệu IPhone 13 Promax. Do cần tiền tiêu xài, L nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. Khi đến nơi giao hàng, L mở gói hàng, chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu IPhone l3 Pro Max trên. L bấm xác nhận đã giao hàng rồi tắt ứng dụng Be, tắt nguồn điện thoại. Sau nhiều lần liên lạc với L không được, lúc 10 giờ 00 ngày 04/4/2023, anh H trình báo Công an Phường 5, Quận 11.

Sau khi chiếm đoạt tài sản, khoảng 20 giờ ngày 03/4/2023, L đi đến tiệm điện thoại Luxury Mobile, địa chỉ 854 H, phường T, Quận 7, L vào bán điện thoại IPhone 13 Pro Max trên cho anh Vũ Mạnh T với giá 8.000.000 đồng. L tiêu xài hết 2.500.000 đồng. Số tiền 5.500.000 đồng còn lại L cất giấu tại địa chỉ nhà số 363/5A tổ 5, ấp 1, đường Nguyễn Bình, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè.

Qua truy xét, Công an Phường 5, Quận 11 phát hiện và lập biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với L. L tự nguyện giao nộp số tiền 5.500.000 đồng còn lại cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11.

Kết luận định giá tài sản số 27/HDĐGTS ngày 07/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND Quận 11, kết luận: 01 điện thoại di động hiệu IPhone 13 Pro Max trị giá 16.300.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra, Khưu Nhật L thừa nhận hành vi phạm tội như trên.

Tại Cơ quan điều tra, anh Vũ Mạnh T, là chủ tiệm điện thoại Luxury Mobile trình bày: Khoảng 20 giờ 00 ngày 03/4/2023, anh T có mua 01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 Promax từ L với giá 8.000.000 đồng. Khi bán điện thoại, L nói lượm được điện thoại trên. Anh T không biết việc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của L. Anh T tự nguyện giao nộp điện thoại trên cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11.

Qua xác minh, Công ty Be Group cho biết: Khưu Nhật L phải chịu hoàn toàn trách nhiệm bồi thường tất cả thiệt hại gây ra cho khách hàng và gây ra cho Công ty Be Group trong quá trình th ực hiện dịch vụ vận chuyển, giao nhận.

Vật chứng thu giữ:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 Promax, là tài sản bị chiếm đoạt, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại.

- 5.500.000 đồng, là số tiền phạm tội mà có.

- 01 xe mô tô hiệu Airblade, biển số 59L2-X. Qua xác minh là của ông Khưu Ngọc L ba ruột của L. Ông Lâm cho L mượn xe trên để giao hàng, không biết việc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của L. Cơ quan điều tra đã trả lại xe trên cho ông L.

- 01 điện thoại di động hiệu Vivo, là tài sản riêng của L - 01 áo thun màu đen, 01 quần jean, 01 nón bảo hiểm màu vàng đen là trang phục L mặc khi phạm tội.

- 01 đĩa CD chứa hình ảnh L bán điện thoại trên.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Trương Huỳnh Phú H đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì khác. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Vũ Mạnh T đã nhận tiền bồi thường từ gia đình L, không có yêu cầu gì khác.

Bản cáo trạng số 46/CT-VKSQ11 ngày 14 tháng 7 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 truy tố bị cáo Khưu Nhật L tội danh “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo có lời khai phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra và những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

- Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 trình bày lời luận tội, giữ quan điểm như truy tố, nêu các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Khưu Nhật L mức án từ 09 (Chín) tháng đến 01 (Một) năm năm tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng đến 02 (Hai) năm, tính từ ngày tuyên án; đồng thời đề nghị hướng xử lý vật chứng, tài sản đã thu giữ:

+ Tịch thu và tiêu hủy: 01 áo thun màu đen, 01 quần jean, 01 nón bảo hiểm màu vàng đen là trang phục L mặc khi phạm tội.

+ Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 5.500.000 đồng là số tiền do L phạm tội mà có.

+ Trả cho bị cáo L 01 điện thoại di động hiệu Vivo.

+ Tịch thu lưu hồ sơ vụ án: 01 đĩa CD chứa hình ảnh L bán điện thoại trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tung:

Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Khưu Nhật L đã khai nhận hành vi “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với bản kết luận điều tra của Công an Quận 11, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Quận 11, tang vật thu giữ phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Đối chiếu với các điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự quy định, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của bị cáo Khưu Nhật L đã phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 175 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật và Nhà nước bảo hộ, gây mất trật tự trị án xã hội và tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Chỉ vì muốn có tiền để tiêu xài, phục vụ cho nhu cầu cá nhân mà không phải thông qua lao động chân chính, bị cáo đã lợi dụng sự tín nhiệm của người giao tài sản cho mình để vận chuyển và giao lại tài sản cho người khác nhưng bị cáo đã chiếm đoạt tài sản bán lấy tiền tiêu xài. Xét thấy, bị cáo có đủ năng lực nhân thức để biết rõ hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì hám lợi nên bị cáo đã xem thường pháp luật.

4] Xét về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Khưu Nhật L có hành vi “ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tài sản bị cáo chiếm đoạt là số tiền 16.300.000 đồng. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 truy tố bị cáo theo quy định khoản 1 Điều 175 của Bộ luật hình sự là có cơ sở và đúng quy định pháp luật.

Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Tài sản đã được thu hồi trả cho người bị hại, gia đình bị cáo đã tích cực khắc phục hậu quả và đã được người bị hại làm đơn bãi nại; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Khưu Nhật L có địa chỉ rõ ràng, thời gian tạm giam cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo. Đồng thời, qua đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội mà cho hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo, đồng thời cũng có tác dụng răn đe phòng ngừa tội phạm chung và phù hợp với quy định Điều 65 luật hình sư, đồng thời thể hiện tính nhân đạo của pháp luật nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với người phạm tội lần đầu biết ăn năn hối cải.

Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 175 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xét tính chất của vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên miễn phạt bổ sung.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay người bị hại vắng mặt, nhưng căn cứ vào hồ sơ vụ án xét thấy anh Trương Huỳnh Phú H đã nhận lại số tiền bị chiếm đoạt, không có yêu cầu gì thêm, nên Hội đồng xét xử xét thấy không có gì phải giải quyết. Đối với ông Vũ Mạnh T đã nhận lại số tiền mua chiếc điện thoại hiện cũng không thắc mắc, khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử xét thấy cũng không có gì phải giải quyết.

[6] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 01 áo thun màu đen, 01 quần jean, 01 nón bảo hiểm màu vàng xanh là trang phục L mặc khi phạm tội không còn giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy.

+ Đối với số tiền 5.500.000 đồng là số tiền do L có được do phạm tội mà có nên tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

+ Đối với 01 điện thoại di động hiệu Vivo là tài sản cá nhân của L không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho L.

+ Tịch thu lưu hồ sơ vụ án: 01 đĩa CD chứa hình ảnh L bán điện thoại (Đĩa CD hiện đang lưu giữ trong hồ sơ vụ án).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

Tuyên bố bị cáo Khưu Nhật L phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ vào Điều 50; điểm a khoản1 Điều 175; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt:

Khưu Nhật L 09 (Chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng, tính từ ngày tuyên án.

Áp dụng khoản 4 Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự;

Hội đồng xét xử tuyên bố trả tự do cho bị cáo Khưu Nhật L ngay tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm nào khác.

Giao bị cáo Khưu Nhật L cho Ủy ban nhân dân Xã Phú Xuân, Huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát giáo dục và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi địa chỉ thì thực hiện theo Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

Căn cứ vào điểm a,b,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và khoản 1, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

+ Tịch thu và tiêu hủy: 01 áo thun màu đen, 01 quần jean, 01 nón bảo hiểm màu vàng đen là trang phục L mặc khi phạm tội.

+ Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 5.500.000 đồng.

+ Trả cho bị cáo L 01 điện thoại di động hiệu Vivo.

(Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 51/LNK-ĐCSHS ngày 12/5/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11).

+ Tịch thu lưu hồ sơ vụ án: 01 đĩa CD chứa hình ảnh L bán điện thoại Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo phải chịu là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Căn cứ Điều 26 Luật thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Tải về
Bản án số 49/2023/HS-ST Bản án số 49/2023/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất