Bản án số 48/2020/HS-ST ngày 14/02/2020 của TAND TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai về tội trộm cắp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 48/2020/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 48/2020/HS-ST ngày 14/02/2020 của TAND TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai về tội trộm cắp tài sản
Tội danh: 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Biên Hòa (TAND tỉnh Đồng Nai)
Số hiệu: 48/2020/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 14/02/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 48/2020/HS-ST NGÀY 14/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 14 tháng 2 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2020/TLST - HS ngày 06 tháng 1 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 2 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên Nguyễn Long Đ sinh năm: 2000, tại Đồng Nai Tên gọi khác: Không.

Hộ khẩu thường trú: 25C/6B, khu phố 6, phường T, thành phố B, Đồng Nai. Nơi cư trú: nhà trọ khu phố 7, phường T, thành phố B, Đồng Nai.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Nghề nghiệp: không; Giới tính: nam; trình độ học vấn: 04/12; Đảng viên: không; Con ông Nguyễn Chí D, sinh năm 1973 và bà Phạm Thị Kim L, sinh năm 1975; bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án: Không Tiền sự: Không.

Bị bắt ngày 22/10/2019. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ công an thành phố Biên Hòa.

Bị hại: Ông Vũ Mạnh Q, sinh năm 1971 Địa chỉ: 113A/3, khu phố 8B, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. (Bị cáo Đ có mặt, ông Q xin vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

 Vào khoảng 11 giờ 20 phút ngày 22/10/2019, bị cáo Nguyễn Long Đ đi bộ đến khu phố 8B, phường T xem ai sơ hở tài sản để trộm cắp tài sản. Khi đi đến nhà của ông Vũ Mạnh Q (sinh năm 1971), địa chỉ số 113A/3, khu phố 8B, phường T, thành phố B thì thấy cổng nhà đóng, bên trong có dựng một xe mô tô hiệu Wave, màu đỏ đen, biển số 60T5-1314, chìa khóa cắm sẵn trên xe, không có người trông coi nên Đ mở chốt cổng đi vào sân nhà. Đ đi vào trong sân nhà thấy bà Dương Thị H là vợ của ông Q đang ngủ, ở trên bàn có để 01 (một) điện thoại hiệu Samsung. Đ đi vào trong nhà lấy chiếc điện thoại bỏ trong túi quần bên trái rồi quay ra sân lấy trộm xe mô tô biển số 60T5-1314 đi ra cổng nổ máy chạy đi. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, ông Vũ Mạnh Q phát hiện mất xe và điện thoại cho con ruột tên Vũ Quốc V biết, anh V cùng với em họ tên Vũ Xuân T cùng đi tìm xe. Khi anh V, anh T đi đến bên hông giáo xứ Hà Nội thuộc khu phố 6, phường T, thành phố B thì phát hiện Đ đang tháo biển số xe của nhà mình nên đã giữ Đ lại, điện báo Công an phường T, thành phố B đến thu giữ trong người Đ 1 điện thoại Samsung và xe mô tô biển số 60T5-1314. Qua làm việc với Nguyễn Long Đ, Đ đã khai nhận hành vi trộm cắp như đã nêu trên. Công an phường T, thành phố B lập hồ sơ ban đầu chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B để điều tra theo thẩm quyền.

Vật chứng vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã thu giữ:

- 01 xe mô tô biển số 60T5-1314, nhãn hiệu Honda Wave ZX, màu đỏ- đen, số máy: 5134227, số khung: 086139, đã trả lại cho chủ sở hữu là ông Vũ Mạnh Q:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy, model E500H, số Imeil 358485065812829/01, đã trả lại cho chủ sở hữu là ông Vũ Mạnh Q.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 492 ngày 30/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B, kết luận: 01 (một) xe mô tô, biển số 60T5- 1314, nhãn hiệu Honda Wave ZX, màu đỏ- đen, số máy 5134227, số khung 086139, có giá trị tài sản định giá là 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng) và 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy, Model: E500H, Imeil 358485065812829/01, có giá trị tài sản định giá là 2.400.000 đồng (hai triệu, bốn trăm nghìn đồng).

Trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra ông Vũ Mạnh Q đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại bản Cáo trạng số 23/CT-VKSBH ngày 27 tháng 12 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Nguyễn Long Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố. Đề nghị, Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, tuyên bố bị cáo Nguyễn Long Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”, xử phạt bị cáo mức án từ 16 tháng đến 18 tháng tù giam.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Long Đ thừa nhận vào khoảng 11 giờ 20 phút ngày 22/10/2019, tại nhà số 113A/3, khu phố 8A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, bị cáo Đ đã thực hiện hành vi lén lút trộm cắp 01 (một) xe mô tô, biển số 60T5- 1314, nhãn hiệu Honda Wave ZX, màu đỏ- đen, số máy: 5134227, số khung: 086139, có giá trị tài sản định giá là 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng) và 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy, Model: E500H, số Imeil 358485065812829/01, có giá trị tài sản định giá là 2.400.000 đồng (hai triệu, bốn trăm nghìn đồng) của ông Vũ Mạnh Q, tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt của ông Vũ Mạnh Q là 8.400.000 đồng (tám triệu, bốn trăm nghìn đồng). Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo, lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người đã trưởng thành, có sức khỏe, có đầy đủ khả năng nhận thức pháp luật. Biết hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện.

Do vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội nhằm cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người tốt và cũng để răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[6] Về vật chứng: 01 xe mô tô biển số 60T5-1314, nhãn hiệu Honda Wave ZX, màu đỏ- đen, số máy: 5134227, số khung: 086139 và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy, model E500H, số Imeil 358485065812829/01, đã trả lại cho chủ sở hữu là ông Vũ Mạnh Q.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì khác nên không đặt ra xem xét.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Long Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Long Đ 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 22/10/2019.

Về án phí: Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Long Đ phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án sơ thẩm hình sự xử công khai, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Tải về
Bản án số 48/2020/HS-ST Bản án số 48/2020/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất