Bản án số 43/2023/HS-ST ngày 17/07/2023 của TAND huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 43/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 43/2023/HS-ST ngày 17/07/2023 của TAND huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tội danh: 140.Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Bắc Quang (TAND tỉnh Hà Giang)
Số hiệu: 43/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/07/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN BẮC QUANG
TỈNH HÀ GIANG
Bản án số: 43/2023/HS-ST
Ngày: 17-7-2023
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các H
ội thẩm nhân dân:
Bà Nguyễn Thị Nhung
Ông Lăng Đức Quang
Ông Nguyễn Hồng Diện
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Đức Chung, Thư viên Tòa án nhân dân
huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang tham
gia phiên tòa: Bà Hoàng Thị Lượng, Kiểm sát viên
Ngày 17 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyn Bắc Quang, tỉnh
Hà Giang, xét xử sơ thẩm công khai ván hình sự sơ thẩm thụ lý số 40/2023/TLST-
HS ngày 08 tháng 6 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
42/2023/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:
Ma Văn N, sinh năm 1970 tại huyện B, tỉnh Hà Giang; Nơi cư trú: thôn L,
B, huyện B, tỉnh Hà Giang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; CCCD số 002070004198,
cấp ngày 21/9/2022; Nơi cấp: Cục Cảnh sát qun hành hành chính vtrật tự
hội - Bộ C4; Trình độ n hóa (học vấn): Lớp 0/12; Dân tộc: y; giới tính: Nam;
Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ma Văn V và bà Ma Thị K; Có vợ
là Dương Thị H, sinh năm 1974 (chưa đăng kết hôn theo quy định của pháp luật),
03 con, con lớn nhất sinh năm 1989, con nhỏ sinh m 1998; Tiền án, tiền sự:
Không; Nhân thân: Ny 02/04/1998, bChủ tịch UBND tỉnh H quyết định áp dụng
biện pháp xử hành chính đưa vào sở giáo dục bắt buộc, thời hạn 24 tháng về
hành vi trộm cắp tài sản (đã chấp hành xong); Ngày 08/9/2009, b ng an huyn B,
tỉnh Giang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản bằng hình
thức pht tiền, stiền 100.000 đồng theo Quyết định số 00610 (đã chp hành xong);
Ngày 09/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xử phạt 01
m về tội Trộm cắp tài sn theo Bn án số: 44/2018/HS-ST (chấp hành xong
ngày 26/08/2019), hiện đã được xóa án tích; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 17/3/2023,
hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giamng an tỉnh H. Có mặt.
- Bị hại: Bà Trương Thị P, sinh năm 1970; nơi cư trú: Thôn N, xã X, huyện C,
tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Hoàng Văn C, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn T, xã B, huyện B, tỉnh Hà
Giang.Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người làm chứng:
+ Ông Ma Văn C1, sinh năm 1983. Vắng mặt không có lý do
+ Ông Ma Văn C2, sinh năm 1994. Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.
+ Ông Ma Văn S, sinh năm 1958. Vắng mặt,có đơn xin xét xử vắng mặt.
+ Ông Ma Văn T, sinh năm 1997. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
+ Bà Dương Thị H, sinh năm 1974. Vắng mt,có đơn xin xét xử vắng mt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo c tài liệu trong hồ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 10/2020, Ma Văn N, sinh năm 1970, trú tại thôn L, xã B, huyện
B, tỉnh Hà Giang quen biết và có tình cảm với chị Trương Thị P, sinh năm 1970, trú
tại thôn N, X, huyện C, tỉnh Tuyên Quang nên cả hai thường xuyên qua lại và
liên lạc với nhau. Ngày 09/02/2021, N đi xe ôm đến nhà Trương Thị Phan c ăn
tết tại đó, đến ny 13/02/2021, N rủ P về nhà N tại thôn L, B, huyn B chơi, P
đồng ý và đưa xe mô tô BKS 22B2 - 271.50 nn hiệu HONDA, số loại FUTURE,
màu sơn đỏ đen cho N điều khiển chở P về nhà N, đến khoảng 22 giờ cùng ngày, N
đưa Phan vào nhà nghỉ T1 thuộc thôn L, xã B, huyện B rồi hai người thuê nhà nghỉ
tại đó, đến sáng ngày 14/02/2021, N hỏi mượn xe mô tô của Phan đi đón cháu nội là
Ma Thị C3, sinh năm 2020, trú cùng thôn đến chơi và được P đồng ý, sau đó N đón
C3 qua chơi với N và Phan tại nhà nghỉ Thủy Lâm V1, đến chiều cùng ngày thì đưa
C3 về nhà. Khoảng 07 giờ sáng ny 15/02/2021, N lại hỏi mượn xe mô tô của P để
đi đón C3, do tin tưởng nên P đồng ý cho N mượn xe. Khi đến nơi, N vào đón cháu
C3 nhưng C3 không đi nên N mt mình đến nhà anh trai là Ma Văn S, trú cùng thôn
chơi ăn cơm trưa. Sau khi ăn cơm xong, N nảy sinh ý định lấy xe mô mượn
của Phan đi cầm cố lấy tiền chi tiêunhân. Khoảng 15 giờ cùng ngày, N điều khin
xe BKS 22B2 - 271.50 đến nanh Hoàng Văn C, sinh năm 1990, ttại thôn
T, B, huyện B nói với C gia đình việc gấp cần tin nên cho N cầm cố
chiếc xe mô tô BKS 22B2 - 271.50 my hôm, sẽ trả. Vì cùng là hàng xóm quen biết
nhau nên C đồng ý cho N cm cố xe trên với số tiền 13.000.000
đ
(mười ba
triệu) và C cho N mượn xe mô tô cũ của C để đi về ngày hôm sau N đã trả lại cho C
chiếc xe trên. Sau khi lấy được tiền, N điều khiển xe mô đi về nhà nghỉ Thủy L
P đang đợi đó, vđến nơi, thấy N đi xe môkhác về mà không phải xe của
mình, Phan hỏi N1 “xe của em đâu lại đi xe y về”, N1 nói “xe của em anh
mượn cắm mấym, qua tết anh đi làm thuê có tiền, anh đi chuộc về trả”, Phan hỏi
N1 cắm xe ở đâu, bao nhiêu tiền thì N1 trả lời cắm xe nhà C được 5.000.000
đ
(năm
triệu), nghe xong, Phan bảo Nghị chở Phan ra trung m huyện B để rút tiền vchuộc
xe. Sau khi Phan rút được 5.000.000
đ
(năm triệu), N1 lại nói cắm xe 10.000.000
đ
(mười triệu). Do không đủ tiền nên P bảo N1 đưa o nhà C lấy giấy đăng ký xe mô
chìa khóa nhà trong cốp xe rồi cả hai đi về nhà nghỉ T1, đến sáng ngày
17/02/2021, Trương Thị Phan bắt xe khách về nhà tại huyn C, tỉnh Tuyên Quang,
sau đó cả hai không liên lạc với nhau. Đến tháng 6/2021, do lâu không thấy N1
trả xe mô tô nên Phan đi tìm gặp N1 và yêu cầu N1 chuộc xe mô tô trả cho P, nhưng
N1 khất nhiều lần với lí do không khả năng chuộc lại xe mô tô, ngày 12/12/2022,
P tiếp tục liên lạc với N1 nhưng không được nên đã gửi đơn đến Công an huyn B
để trình báo sviệc. Sau khi tiếp nhận đơn, quan Cảnh sát điều tra Công an huyn
B đã mời N1 đến làm việc, tại quan điều tra, N1 đã khai nhận toàn bộ hành vi
mượn xe mô tô của P sau đó tự ý lấy xe đi cầm cố khi chưa có sự đồng ý của P, sau
khi lấy được tiền, N1 đã chi tiêu cá nhân hết và không có khả năng chuộc lại xe để
trả lại cho P. Sau khi làm việc tại quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, N1
về nhà và đã bỏ đi khỏi nơi trú, quan điều tra đã nhiều lần xác minh nhưng
không c định được N1 đi đâu, m gì. Đến ngày 17/3/2023, khi biết được thông
tin N1 đangmt tại thôn L, xã B, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã
ra lệnh bắt tạm giam để điều tra theo quy định của pháp luật.
Ngày 18/12/2022, quan Cảnh sát điều tra công an huyện B ban hành Yêu
cầu định giá tài sản số 51, đề nghị Hội đồng Định già tài sản trong Tố tụng Hình sự
huyện B định giá: 01 (một) xe BKS 22B2 - 271.50, nhãn hiệu HONDA, số
loại FUTURE, màu sơn đỏ đen, số máy: JC76E0314350, số khung 7638JZ010147
(xe cũ đã qua sử dụng).
Tại bản kết luận định giá tài sản số 52/KL - HĐĐGTS, ngày 18/12/2022 của
Hội đồng định i sản trong tố tụng hình shuyn B kết luận: 01 (mt) xe mô
BKS 22B2 - 271.50, nhãn hiệu HONDA, số loại FUTURE, màu sơn đỏ đen, số y:
JC76E0314350, số khung 7638JZ010147 (xe đã qua sử dụng) trị giá
23.000.000
đ
(hai mươi ba triệu).
Với hành vi trên, tại Cáo trạng số 43/CT-VKSBQ ngày 07/6/2023 của Viện
Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Giang đã truy tố Ma Văn N về tội
“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175
của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Quá trình điều tra tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm
tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.
Trên sở phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo,
tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang vẫn
giữ nguyên quyết định truy tố Ma Văn N về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản” và đề nghị Hi đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175, Điều 38, Điều
50, đoạn 1 điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Ma
Văn N t 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành nh
phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giam (ngày 17/3/2023).
- Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
* Về trách nhiệm dân sự: Tại giai đoan điều tra cũng như trong đơn xin xét xử
vắng mặt, bị hại Trương Thị P đã được nhận lại tài sản là chiếc xe mô tô BKS BKS
22B2 - 271.50, nay bị hại không có yêu cầu nào khác, nên đề nghị không xemt.
Đối với yêu cầu của người quyền lợi nghĩa vụ liên quan, quá trình điều tra
cũng như trong đơn xin xét xvắng mặt anh Hoàng Văn C yêu cầu bị cáo Ma Văn
N phải trả lại số tiền 18.000.000
đ
(mười tám triệu). Tại phiên tòa bị cáo nhất trí bồi
thường cho anh C số tiền nêu trên, nên đề nghị Hội đồng xét xử cần áp dụng các
Điều 584, 585, 586 của Bộ luật dân sự ghi nhn sự tự nguyện của bị cáo về việc trả
lại số tiền nêu trên cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
* Về xử vật chứng: Đối với xe mô BKS 22B2 - 271.50, nhãn hiệu
HONDA, s loại FUTURE, màu sơn đỏ đen, số máy: JC76E0314350, số khung
7638JZ010147 (xe cũ đã qua sử dụng) được xác định là tài sản của chị Trương Thị
P, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã ra quyết định xử lý vật chứng trả
lại số tài sản trên cho chị Trương Thị P theo biên bản về việc trao trả tài sản đồ vật,
tài liệu ngày 08/5/2023. Việc xử lý vật chứng của Cơ quan CSĐT Công an huyện B
là đúng quy định của pháp luật nên đề nghị không xem xét.
Phần tranh luận, bị cáo nhất trí với tội danh, điều luật áp dụng mức hình phạt
của Kiểm sát viên đã đề nghị trong bản luận tội.
Lời nói sau cùng của bcáo tại phiên tòa: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho
bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về ttụng: Hành vi, quyết định tố tụng củaquan Cảnh sát điều tra, Viện
kiểm t, Điều tra viên, Kiểm sát viên của huyện B, tỉnh Giang trong quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục của Bộ luật
Tố tụng hình sự quy định. Giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tnhững người
tham gia tố tụng trong vụ án không ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định
của các quan, người tiến hành tố tụng. Do đó các chứng cứ, tài liu đã thu thập
có trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa vắng mặt bị hại, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người
làm chứng, nhưng họ đã có đơn xin xét xử vắng mặt, một người làm chứng vắng mặt
không do. Tuy nhiên, xét thấy sự vắng của họ không m ảnh hưởng đến nội
dung của vụ án. Căn cứ vào các Điều 292, 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội
đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo thủ tụng chung.
[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Ma Văn N tại
phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, biên bản
bắt bị can để tạm giam, bản ảnh vật chứng, biên bản giao nhận tài liệu đvật, giữ
liu điện tử ngày 04/5/2023; Kết luận định gtài sản số: 52/KL-HĐĐGTS ngày
18/12/2023 của Hội Đồng ĐGTSTTTHS, lời khai của bị hại, người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ
án. Như vậy đủ căn cứ xác định, ngày 15 tháng 02 năm 2021, bcáo Ma Văn N
đã hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là chiếc xe mô của chị
Trương Thị Phan t tại thôn N, xã X, huyn C, tỉnh Tuyên Quang, giá trị tài sản
23.000.000
đ
(hai mươi ba triệu đồng). Do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự
theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm t
nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã truy tố là đúng người đúng tội, đúng
pháp lut.
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo Ma Văn N thuộc trường hợp phạm tội ít nghiêm
trọng, khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt từ 06
tháng đến 03 năm. Hành vi phạm tội bị cáo đã y ra nguy hiểm cho hội,
đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác là khách thể được pháp luật
hình sự Việt Nam bảo vệ. Đồng thời còn làm mất trật tự trị an tại địa phương, gây lo
lắng cho quần chúng nhân dân trong việc quản lý tài sản. Bcáo người đủ năng
lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình vi phạm pháp luật,
nhưng không tu tlàm ăn, lười lao động, bị cáo đã lợi dụng lòng tin của người
thân quen để chiếm đoạt tài sn bán lấy tiền nhằm mục đích cho việc chi tiêu của cá
nhân. Do đó, cần xử bcáo bằng pháp luật hình sự với mức án tương xứng với
hành vi phạm tội bị cáo y ra nhằm giáo dục bị cáo nói riêng và để răn đe
phòng ngừa chung.
[5] Về c tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, Hội
đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá
trình điều tra và tại phiêna bị cáo đã thành khẩn khai báo, tài sản bị cáo lạm dụng
để chiếm đoạt có giá trị là 23.000.000
đ
(hai mươi ba triệu đng) đã được trả lại cho
bị hại, cho thấy bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra
tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, đâycác tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự được quy định tại đoạn 1điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, nên
khi lượng hình, Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo.
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, cụ thể ngày 02/04/1998, bị Chủ tịch UBND
tỉnh H quyết định áp dụng biện pháp xử hành chính đưa vào sở giáo dục bắt
buộc, thời hạn 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản (đã chấp hành xong); Ngày
08/9/2009, bị Công an huyện B, tỉnh Hà Giang xphạt vi phạm hành chính về hành
vi trộm cắp tài sản bằng hình thức phạt tiền, số tiền 100.000 đồng theo Quyết định
số 00610 (đã chấp hành xong); Ngày 09/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Bắc
Quang, tỉnh Giang xử phạt 01 năm vtội Trộm cắp tài sản theo Bản án số:
44/2018/HS-ST (chấp hành xong ngày 26/08/2019), hiện đã được xóa án tích
[6] Từ những phân tích trên cho thấy bị cáo lối sống coi thường k cương
của xã hội, pháp luật của Nhà nước. Do đó Hội đồng xét xử thấy mức hình phạt mà
Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang đề nghị áp dụng đối với bị cáo có
sở, cần thiết phải cách ly bcáo ra khỏi đời sống hội một thời gian nhất định, như
vậy mới tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng và đấu tranh phòng ngừa chung.
[7] Vềnh phạt bổ sung: Do bị cáo không việc mthu nhp n định nên
không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền theo quy định ti khoản 5 Điều 175 B
luật Hình sự.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Giai đoạn điều tra bị hại đã được nhn lại được chiếc
xe mô tô, nay bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường về dân sự, nên Hội đồng
xét xử không xem xét giải quyết.
[9] Đối với yêu cầu của người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Hoàng Văn C
về phần trách nhiệm dân sự là người cho bị cáo cầm cố chiếc xe mô tô BKS 22B2 -
271.50 với số tiền 13.000.000
đ
(mười ba triệu đồng). Khi bị cáo đến cầm cố chiếc
xe mô tô, do không biết chiếc xe mô tô là tài sản của người khác nên anh C đã bán
cho một người đàn ông không quen biết với g 15.000.000
đ
(mười m triu đồng).
Sau khi bị cáo Ma n N bị khởi tố, anh Hoàng Văn C đã tìm và chuộc lại chiếc xe
tô trên với giá 18.000.000
đ
(mười tám triệu đồng) đã giao nộp cho quan
điều tra. Do đó yêu cầu của anh C đề nghị giải quyết buộc bị cáo Ma Văn N phải tr
lại số tiền 18.000.000
đ
(mười tám triệu đồng) sở cần được chấp nhân. Tại
phiên tòa bị cáo nhất trí bồi thường cho anh C số tiền nêu trên, nên cần áp dụng các
Điều 584, 585, 586 của Bộ luật Dân sự cần ghi nhận sự tự nguyn của bị cáo về việc
trả lại số tiền nêu trên cho người có quyn lợi, nghĩa vụ liên quan Hoàng Văn C
[10] Về xử vật chứng: Đối với xe mô BKS 22B2 - 271.50, nhãn hiệu
HONDA, số loại FUTURE, màu sơn đỏ đen, số máy: JC76E0314350, số khung
7638JZ010147 (xe cũ đã qua sử dụng) được xác định là tài sản của chị Trương Thị
P, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã ra quyết định xử lý vật chứng trả
lại số tài sản trên cho chị Trương Thị P theo biên bản về việc trao trả tài sản đồ vật,
tài liệu ngày 08/5/2023 khi nhận lại tài sản thấy không bị hỏng nên bị hi
không yêu cầu bị cáo phải bồi thường. Việc xử vật chứng của quan CSĐT
Công an huyện B là đúng quy định của pháp luật nên HĐXX không đề cập xử lý.
[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định. Đối với
phần án phí dân sựthẩm giá ngạch bị cáo Ma Văn N tự nguyn chịu toàn bộ
số tiền án phí dân sự thẩm giá ngạch theo quy định của pháp luật. các lẽ
trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm b, khoản 1 Điều 175, Điều 38, Điều 50, đoạn 1 điểm s khoản 1,
Điều 51, Điều 48 của Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 586 ca Bộ luật Dân sự;
khoản 2 Điều 136, các Điều 331, 333, 336, 337 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều
21, Điều 23, khoản 8 Điều 26 của Nghị quyết s 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của UBTVQH quy định về mc thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án,
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ma Văn N phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị o Ma Văn N 01 (mt) m 06 (sáu) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị tạm giam (ngày 17/3/2023).
3. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Ma Văn N trách nhiệm trả lại cho anh
Hoàng Văn C, sinh năm 1990; trú tại: thôn T, xã B, huyện B, tỉnh Giang số tiền
là 18.000.000
đ
(mười tám triệu đồng).
Kể t ngày bản án hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp quan thi
hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể t ngày có đơn yêu
cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho
người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định
quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trtrường hợp pháp
luật có quy định khác.
4. Về án phí: Bị cáo Ma Văn N phải chịu số tiền án phí hình sự thẩm
200.000đ (hai trăm nghìn đồng) và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 900.000đ
(Chín trăm nghìn đồng). Tổng cộng số án p bị cáo Ma Văn N phải chịu
1.100.000đ (một triệu một trăm nghìn đồng).
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời
hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người quyền lợi, nghĩa v liên quan
vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ny, kể từ ngày nhận được bản án
hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án
dân sự.
Nơi nhận:
- Những người tham gia tố tụng;
- VKSND huyện Bắc Quang;
- VKSND tỉnh Hà Giang;
- Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang;
- Sở tư pháp tỉnh Hà Giang
- UBND xã Bằng Hành,
Công an huyện Bắc Quang;
- Chi cục THADS huyện Bắc Quang;
- Lưu: HSVA, THA phạt tù.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Nhung
Tải về
Bản án số 43/2023/HS-ST Bản án số 43/2023/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất