Bản án số 413/2023/HS-PT ngày 27/06/2023 của TAND cấp cao về tội gây rối trật tự công cộng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 413/2023/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 413/2023/HS-PT ngày 27/06/2023 của TAND cấp cao về tội gây rối trật tự công cộng
Tội danh: 245.Tội gây rối trật tự công cộng (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao
Số hiệu: 413/2023/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/06/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Lê Nguyễn Gia K và đồng phạm tội gây rối trật tự công cộng
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do – Hạnh Phúc
Bản án số: 413/2023/HS-PT
Ngày: 27-6-2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Văn Mười
Các Thẩm phán Ông Nguyễn Văn Khương
Ông Dương Tuấn Vinh
- Thư ký phiên tòa: Thị Thủy Tiên - Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ CMinh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham
gia phiên tòa: Ông Nguyễn Hữu Hậu - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 6 năm 2023, tại trụ sTòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh xét xphúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ số: 238/2023/TLPT-
HS ngày 11/4/2023. Do kháng cáo của các bị cáo Minh Q, Nguyễn Gia K,
Nguyễn Huỳnh Gia L đối với Bản án hình sự thẩm số 03/2023/HS-ST.TE ngày
02/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp.
Bị cáo có kháng cáo:
1. Họ tên: Nguyễn Gia K; Giới tính: Nam; Sinh ngày 17/6/2003, tại:
Đồng Tháp; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học
vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Không; Nơi trú: Khóm A, thị trấn M, huyện T, tỉnh
Đồng Tháp; Con ông Thanh L1, sinh m 1976 Nguyễn Thị Ngọc T, sinh
năm 1981; Vợ, con: Chưa có; Gia đình 02 anh em, bị cáo con thứ nhất; Tiền
án, tiền sự: Không; Tạm gingày 27/10/2021; Tạm giam ngày 30/10/2021; Hiện
đang bị tạm giam tại Trại tam giam Công an tỉnh Đ (có mặt tại phiên tòa).
2. Họ tên: Minh Q; Giới tính: Nam; Sinh ngày 29/12/2001, tại: Đồng
Tháp; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình đhọc vấn:
9/12; Nghề nghiệp: Không; Nơi trú: Khóm A, thị trấn M, huyện T, tỉnh Đồng
Tháp; Con ông: Không htên bà: Thị Bích C, sinh năm 1973; Vợ, con:
Chưa có; Bị cáo con duy nhất trong gia đình; Tiền án, tiền sự: Không; Lệnh cấm
đi khỏi nơi cư trú ngày 11/6/2022 (có mặt tại phiên tòa).
3. Họ và tên: Nguyễn Huỳnh Gia L; Giới tính: Nam; Sinh ngày 10/02/2003, tại:
Đồng Tháp; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học
vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Không; Nơi trú: Khóm D, th trấn M, huyện T, tỉnh
2
Đồng Tháp; Con ông: Nguyễn Minh P, sinh năm 1971 bà: Nguyễn Thị Kim Á,
sinh năm 1973; Vợ, con: Chưa có; Gia đình 02 anh em, bị cáo thứ hai; Tiền án,
tiền sự: Không; Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 13/9/2022 (có mặt tại phiên tòa).
Ngoài ra trong vụ án còn các bị cáo, người b hại không kháng cáo,
không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:
Nguyễn Hữu K1, Phạm Gia B, Nguyễn Gia K, Minh Q, Nguyễn Quốc
B1, Nguyễn Huỳnh Gia LBùi Quốc T1 là bạn bè chơi chung với nhau.
Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 08/02/2021, Tăng Nguyễn Hoàng M (T) ng với
các bạn Huỳnh Minh D, Đoàn Phi H, Nguyễn Văn L2, Nguyễn Vĩnh H1, Đ P
(chưa rõ họ tên) ngồi nhậu trên gác của quán H3 thuộc khóm B, thị trấn M, huyện T,
tỉnh Đồng Tháp. Cùng thời điểm trên, Nguyễn Hòa B2, Nguyễn Đăng K2, Phạm
Nhật A, Huỳnh Đức T2 T3 (chưa họ tên) đang ngồi nhậu trên vỉa của quán
H3. Trong lúc nhậu, nhóm của Nguyễn Hòa B2 kêu người tên H2 đem thùng hát kẹo
kéo đến hát thì T4 Nguyễn Hoàng M mượn micro để hát nhưng nhóm người của Hòa
B2 không cho nên hai bên xảy ra mâu thuẫn. Nguyễn Đăng K2 kêu Phạm Gia Đ1,
Phạm Gia B Nguyễn Quốc B1 đến giúp Hòa B2. Khi đến quán, Gia Đ1 thấy quen
biết nhau nên can ngăn, Bùi Quốc T1 (không ai kêu đến) điện thoại kêu Minh
Q đến phụ giúp nhóm của Hòa B2 đánh nhau, khi hai bên đánh nhau thì anh Nguyễn
Vĩnh H1 bị trầy xước đầu gối nên nhóm của Hoàng M đưa H1 đến Bệnh viện Đ2
để sơ cứu vết thương.
Sau khi kết thúc sự việc đánh nhau, Nguyễn Hòa B2, Minh Q, i Quốc T1,
Phạm Gia B, Nguyễn Quốc B1 Phạm Gia Đ1 đi về nhà Gia Đ1 cách quán H3
khoảng 200m, những người còn lại đi về nhà của mình. Một lúc sau Nguyễn
Gia K, Nguyễn Huỳnh Gia L, Nguyễn Hữu K3, Đinh Bảo T5 Nguyễn Hoàng T6
đến nhà Gia Đ1. Lúc này, Gia B nói đồ chơi không (dao tchế), T5 nói nhà của
T5 dao, T1 kêu Gia B chở T5 về nhà lấy dao, T5 lấy 01 bao bên trong đựng 03
con dao t chế đem đến nhà của Gia Đ1. Một lúc sau, T7 (chưa họ tên) chở
Nguyễn Hữu K1 đến cùng với 01 bao bên trong đựng nhiều dao tự chế. Đến khoảng
23 giờ 50 phút cùng ngày, Gia Đ1 chạy xe về nói “Nhóm của Hoàng M trên Bệnh
viện”. Khi nghe Gia Đ1 nói xong thì Quốc B1, Gia K, Gia B, Q, T7, K1, T5, Gia L
T1 điều khiển xe mang theo dao tự chế chạy đến cổng Bệnh viện Đ2, còn Hòa B2
Gia Đ1 nhà không đi theo. Cả nhóm 9 người đậu xe bên ngoài hàng rào của
Bệnh viện được vài phút thì phát hiện nhóm của Hoàng M đang đứng trong khoa cấp
cứu cùng với nhiều bệnh nhân và nhân viên y tế nên K1 la lên “Tụi nó kìa”, K1 cầm
dao tự chế trên tay phải chạy vào trước, T5 cầm dao tự chế trên tay phải chạy vị trí
thứ hai, T1 cầm dao tự chế trên tay phải chạy vị trí thba, Gia K cầm dao tự chế
trên tay phải chạy vị trí thứ tư, Gia B cầm dao tự chế trên tay phải chạy vị trí thứ
năm, Gia L cầm dao tự chế chạy vào cổng Bệnh viện thì bị Q từ phía sau chạy đến
giật lấy dao chạy vào trước; còn Gia L, Quốc B1 không cầm hung khí chạy vị trí thứ
3
bảy tám, T7 chạy vtrí thứ chín không cầm hung khí. Khi thấy nhiều người
cầm hung khí chạy vào thì Nguyễn Văn L2 chạy một hướng, Nguyễn Văn K4 cùng
với D, H, H1 chạy một hướng và nhân viên y tế bỏ chạy hoảng loạn. Nguyễn n
K5 rượt theo bị hại L2, L2 cầm cái bảng bằng kim loại ném vào người K5 nhưng
không trúng, K5 tiếp tục cầm dao rượt theo làm L2 ngã nằm xấp hơi nghiêng, mặt
quay lại nhìn về phía sau, gần cửa phòng cấp cứu, K5 cầm dao tự chế chém liên tục
nhiều cái vào người, vào vùng đầu của L2. Lợi dụng khi K5 mất cảnh giác, L2 cố
gắng chạy vào bên trong phòng khóa cửa lại, K5 tiếp tục cầm dao chém liên tiếp
nhiều cái vào cửa phòng làm bể kiếng để tìm cách vào bên trong chém tiếp nhằm
tướt đoạt sinh mạng của L2 nhưng không vào bên trong được nên bỏ đi ra ngoài.
Còn Phạm Gia B, Nguyễn Gia K, Nguyễn Quốc B1, Nguyễn Huỳnh Gia L,
Minh Q và Bùi Quốc T1, T5T7 rượt theo Nguyễn Văn K4, Gia B dùng dao chém
trúng vào bàn tay trái của K4 gây thương tích, K4 lấy cây kim loại màu trắng dùng
để treo chai nước biển ghế gỗ ném vào nhóm của Gia B nên chạy thoát. Sau đó,
K5 cùng đồng bọn rời khỏi hiện trường.
* Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 141/TgT ngày 31/3/2021
của Trung tâm pháp y tỉnh Đ, kết luận đối với Nguyễn Văn L2 như sau:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Sẹo vết thương phần mềm vùng đỉnh chẩm trái, kích thước trung bình, tỷ lệ
tổn thương 2%.
- Sẹo vết thương phần mềm đốt xa ngón I tay trái, kích thước trung bình, tlệ
tổn thương 2%.
- Sẹo vết thương phần mềm vùng thắt lưng trái, kích thước trung bình, tỷ lệ tổn
thương 2%.
- Sẹo vết thương phần mềm 1/3 dưới mặt ngoài cẳng chân trái, kích thước trung
bình, tỷ lệ tổn thương 2%.
- Vết thương vùng đỉnh trán gây lún bản sọ + dập não (ổ tổn thương não đường
kính nhỏ), tỷ lệ tổn thương 23%.ư
2. Kết luận: Tỷ lệ tổn thương thể Nguyễn Văn Lý do thương tích gây nên
hiện tại là 29%, các vết thương do vật sắc bén gây ra.
* Tại công văn số 83 ngày 27/01/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Đ trả lời đối
với thương tích của bị hại Nguyễn Văn L2 như sau: Tất cả các chấn thương trên
thể con người đều có khả năng dẫn đến tử vong nếu không cấp cứu kịp thời.
* Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 136/TgT ngày 31/3/2021
của Trung tâm pháp y tỉnh Đ, kết luận đối với Nguyễn Văn K4 như sau:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- 02 Sẹo vết thương phần mềm khớp bàn - đốt gần, đốt xa ngón II bàn tay trái,
kích thước nhỏ, tỷ lệ tổn thương mỗi sẹo 1%.
- Vết biển đổi sắc tố da 1/3 giữa cánh tay trái, tỷ lệ tổn thương 1%.
- Vết thương khớp bàn đốt gần ngón II bàn tay trái gây rách bao khớp đã điều
trị còn sưng, đỏ, đau nhẹ, vận động ngón II hạn chế ít, tỷ lệ tổn thương 4 %.
4
2. Kết luận: Tỷ lệ tổn thương thể Nguyễn Văn K4 do thương tích gây nên
hiện tại là 7%, các vết thương do vật sắc bén gây ra.
* Tại bản kết luận định giá số 36 ngày 09/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản
trong tố tụng hình sự, kết luận: 01 tấm kính không màu giá trị 160.000 đồng, 01
ghế gỗ có giá trị 250.000 đồng, tổng tài sản có giá trị 410.000 đồng.
* Hiện trường xảy ra vụ án tại Khoa cấp cứu hồi sức Bệnh viện Đ2 thuộc
khóm B, thị trấn M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp. Trong quá trình khám nghiệm hiện
trường quá trình điều tra đã thu giữ: 01 (một) áo thun ngắn tay màu trắng; 02
(hai) quần Jean màu đen; 01 (một) áo thun ngắn tay màu đen; 1 (một) quần Jean màu
xanh chấm màu trắng hiệu ICON; 01 (một) con dao tự chế bằng kim loại, lưỡi sắt,
dài 60cm, rộng 4cm, cán dài 23cm; 03 (ba) chai bơm xăng tự chế làm từ chai thủy
tinh nhãn hiệu bia sài gòn; 01 (một) con dao bằng kim loại, lưỡi sắt, dài 23cm; 01
(một) áo thun ngắn tay màu đỏ; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen
của Phạm Gia B; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, màu hồng của Nguyễn
Quốc B1; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, màu vàng của Nguyễn Hoàng
T6; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen của Nguyễn Hữu K1 thu
giữ 04 tập tin video tại Bệnh viện Đ2.
* Tại bản kết luận giám định số 482 ngày 13/5/2021 của Phòng K6 Công an
tỉnh Đ, kết luận:
- 03 (ba) tập tin video ký hiệu A1, A2, A4 có trong đĩa DVD hiệu Maxell không
phát hiện dấu hiệu chỉnh sửa, cắt ghép về nội dung.
- 01 (một) tập tin video hiệu A3 trong đĩa DVD hiệu Maxell bị lỗi (hỏng)
nên không tiến hành giám định được.
Trong quá trình điều tra, bị hại Nguyễn Văn K4 đơn yêu cầu xử lý hình sự
đối với những người gây thương tích cho mình. Cơ quan cảnh sát điều tra đã khởi tố
Phạm Gia B, Nguyễn Gia K, Nguyễn Quốc B1, Nguyễn Huỳnh Gia L, Minh
Q Bùi Quốc T1 về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật
Hình sự. Bị hại Nguyễn Văn K4 đơn bãi nại, rút lại toàn bộ đơn yêu cầu xử lý
hình sự về hành vi gây thương tích. Ngày 26/10/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra căn
cứ vào khoản 2 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự ra Quyết định đình chỉ điều tra vụ
án hình sự đối với các bị can Phạm Gia Bảo, Nguyễn Gia K, Nguyễn Quốc B1,
Nguyễn Huỳnh Gia L, Minh Q Bùi Quốc T1 về tội “Cố ý gây thương tích”.
Xét thấy việc đình chỉ điều tra đối với các bị can trên về tội “Cý gây thương tích”
là phù hợp với quy định của pháp luật.
Đối với tài sản bị thiệt hại 01 tấm kính không màu, 01 ghế gỗ, Bùi Quốc T1 đã
bồi thường xong, đại diện Bệnh viện Đ2 đã nhận tiền không yêu cầu bồi
thường gì thêm.
* Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo đã bồi thường cho bị hại Nguyễn Văn L2
số tiền 80.000.000 đồng và Nguyễn Văn K4 số tiền 25.000.000 đồng. Nguyễn Văn
L2 Nguyễn Văn K4 không yêu cầu bồi thường thêm đơn xin giảm nhẹ
5
hình phạt cho các bị cáo Phạm Gia B, Nguyễn Quốc B1, Lê Minh Q, Lê Nguyễn Gia
K, Nguyễn Huỳnh Gia L, Bùi Quốc T1Nguyễn Hữu K1.
Tại Cáo trạng số 33/CT-VKSĐT-P2 ngày 16 tháng 11 năm 2022 của Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu Khánh về tội “Giết
người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự; truy tố các bị
cáo Phạm Gia B, Minh Q, Nguyễn Quốc B1, Bùi Quốc T1, Nguyễn Gia K
Nguyễn Huỳnh Gia L về tội “Gây rối trật tự công cộngtheo quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự.
Tại Bản án hình sự thẩm số 03/2023/HS-ST.TE ngày 02/3/2023 của Tòa
án nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã tuyên xử:
I. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu K1 phạm tội “Giết người”; các bị cáo Phạm
Gia B, Minh Q, Nguyễn Quốc B1, Bùi Quốc T1, Nguyễn Gia K Nguyễn
Huỳnh Gia L ng phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Về hình phạt:
2. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Lê Minh Q 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi
chấp hành án.
4. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 91 và khoản
1 Điều 101 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc B1 02 (hai) năm . Thời hạn tính từ ngày bắt
bị cáo đi chấp hành án.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Huỳnh Gia L 02 (hai) năm tù. Thời hạn tính tngày
bắt bị cáo đi chấp hành án.
5. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91
và khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Gia K 02 (hai) năm . Thời hạn tính từ ngày
27/10/2021.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về x vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí,
quyền thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 09/3/2023 bcáo Minh Q đơn kháng cáo
xin giảm nhẹ hình phạt; Ngày 13/3/2023 bị cáo Nguyễn Gia K đơn kháng cáo
xin giảm nhẹ hình phạt; Ngày 13/3/2023 bị cáo Nguyễn Huỳnh Gia L đơn kháng
cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia
phiên tòa phát biểu:
6
Về thủ tục tố tụng: Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện
đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, kháng cáo của các bị cáo trong hạn
luật định. Về nội dung vụ án đúng như chủ tọa phiên tòa tóm tắt.
Về nội dung, xét kháng cáo về phần hình phạt đối với các bị cáo, đại diện Viện
kiểm sát phân tích về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo nhận thấy
mức án cấp thẩm đã áp dụng căn cứ, đúng người đúng tội, đúng pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết
giảm nhẹ nào mới. Từ đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355
Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản
án sơ thẩm.
Bị cáo Minh Q trình bày: Bị cáo hoàn cảnh gia đình kkhăn được c
nhận của địa phương.
Bị cáo Lê Nguyễn K trình bày: Bị cáo có hoàn cảnh rất khó khăn, cha mẹ ly hôn
từ nhỏ, bị cáo sống với bà ngoại nên không được cha mẹ dạy dỗ nên mới phạm tội.
Bị cáo Nguyễn Huỳnh Gia L trình bày: Bị cáo bổ sung tình tiết gia đình có công
cách mạng.
Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận
kháng cáo của các bị cáo.
NHN ĐNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã được
thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] V thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của các bị cáo Minh Q, Nguyễn
Gia K1, Nguyễn Huỳnh Gia L trong hạn luật định, hợp lệ nên đủ điều kiện để giải
quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm
quyền trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Xét kháng cáo của các bị cáo:
[2.1] V tội danh: Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm
tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người bị hại, người
đại diện hợp pháp của bị cáo, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm
chứng, vật chứng cùng với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ kết
luận: Do mâu thuẫn trong lúc nhậu quán H2 giữa nhóm của Tăng Nguyễn
Hoàng M và nhóm của Nguyễn Hòa B dẫn đến đánh nhau thì Nguyễn Vĩnh H bị trầy
xước đầu gối nên nhóm của Hoàng M đưa H đến Bệnh viện Đ để cứu vết
thương. Khi nghe tin nhóm của Hoàng M đang ở bệnh viện T4, G, Gia B1, Q, T, K2,
T1, Gia L và T2 điều khiển xe mang theo dao tự chế chạy đến cổng Bệnh viện Đ. Cả
nhóm 9 người đậu xe bên ngoài hàng rào của Bệnh viện được vài phút thì phát hiện
nhóm của Hoàng M đang đứng trong khoa cấp cứu cùng với nhiều bệnh nhân
nhân viên y tế nên K2 la lên “Tụi kìa” rồi cả nhóm cùng nhau chạy vào Bệnh
viện. Thấy nhiều người cầm hung khí chạy vào thì L1 chạy một hướng, Nguyễn
7
Văn K3 cùng với D, H1, H chạy một hướng nhân viên y tế bỏ chạy hoảng loạn.
K2 trực tiếp cầm dao tự chế rượt theo bị hại Nguyễn Văn L2 chém liên tiếp nhiều cái
vào vùng đầu, vào người của L2. Lợi dụng K2 hnên L2 cố gắng chạy vào bên
trong phòng cấp cứu khóa cửa lại nhưng K2 không dừng lại tiếp tục chém vào
cửa phòng làm bể kiếng để vào bên trong chém tiếp nhằm tướt đoạt sinh mạng của
L2 nhưng không vào bên trong được nên K2 mới dừng lại. Bị hại L2 bị tổn thương
thể gây lún bản sọ, dập não với tổng tỷ lệ 29%. Còn Gia B1, G, Quốc B2, G,
Minh Q, Quốc T3, T1 và T rượt theo Nguyễn Văn K3. Gia B1 dùng dao chém trúng
vào bàn tay trái của K3 gây thương tích, K3 lấy cây kim loại dùng để treo chai nước
biển và ghế gỗ ném vào nhóm của Gia B1 nên chạy thoát. Sau đó, K2 cùng đồng bọn
rời khỏi hiện trường.
Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Minh Q,
Nguyễn Gia K1, Nguyễn Huỳnh Gia L về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy
định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự căn cứ, đúng pháp luật,
không oan, không sai.
[2.2] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm
tội của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo thực hiện hành vi ở hiện
trường là nơi công cộng, ngay Khoa cấp cứu của Bệnh viện Đ. Hành vi phạm tội của
các bị cáo mang đặc điểm băng nhóm, xâm phạm sức khỏe của người khác, gây mất
an ninh trật tự, an toàn xã hội, tạo tâm lý hoang mang, lo sợ trong nhân dân, thể hiện
tính manh động, coi thường pháp luật các quy tắc sống của cộng đồng. Hành vi
phạm tội của các bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh để bảo đảm sự thượng tôn
pháp luật, giữ gìn trật tự, kỷ cương cho xã hội và mang lại sự bình yên cho nhân dân.
[2.3] V tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm xét thấy các bị cáo Minh Q, Nguyễn
Gia K1, Nguyễn Huỳnh Gia L không tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Đồng thời đã xem xét đầy đ về nhân thân các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị
cáo như: các bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo K1 Gia L phạm tội khi độ tuổi
chưa thành niên; bị cáo K1 đầu thú; các bị cáo học vấn thấp nên nhận thức về
pháp luật còn hạn chế nên được cấp thẩm áp dụng điểm điểm s khoản 1 Điều 51,
khoản 2 Điều 51, Điều 91 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Minh Q 03 năm tù,
Nguyễn Gia K1 02 năm tù, Nguyễn Huỳnh Gia L 02 năm tù là đúng pháp luật, tương
xứng với tính chất, hậu quả xảy ra do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Bị cáo Nguyễn Gia K1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo trình bày
hoàn cảnh khó khăn nhưng không tài liệu, chứng cứ chứng minh nên Hội đồng
xét xử không có căn cứ để xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
Bị cáo Minh Q kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo trình bày hoàn
cảnh khó khăn xác nhận của chính quyền địa phương, Hội đồng xét xử xem xét
Đơn xin xác nhận nhân thân của bị cáo Q (Bút lục số 951) nhận thấy nội dung xác
nhận của Công an thị trấn M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp chỉ xác nhận nội dung bị cáo
8
Q thường trú tại khóm A, thị trấn M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp chứ không xác nhận
nội dung bị cáo khi sinh sống tại địa phương chấp hành tốt chủ trương, pháp luật nên
trình bày của bị cáo không có cơ sở để xem xét.
Bị cáo Nguyễn Huỳnh Gia L trình bày bị cáo tình tiết giảm nhẹ mới gia
đình công với cách mạng. Qua xem xét Đơn xin xác nhận mối quan hệ của
Nguyễn Thị Kim Á là mẹ của bị cáo L (Bút lục 957), Hội đồng xét xử xét thấy Ủy
ban nhân dân T, huyện C, tỉnh Long An chỉ xác nhận nội dung “…ông Nguyễn
Văn N thương binh 81%...”, tuy nhiên Ủy ban không xác nhận nội dung ông
Nguyễn Văn N mối quan hệ ông-cháu với bị cáo Nguyễn Huỳnh Gia L. Ngoài ra
bị cáo L không có tài liệu, chứng cứ khác chứng minh ông N là ông ngoại của bị cáo
L như giấy khai sinh của bà Á,… nên cấp phúc thẩm không căn cứ để xem xét
tình tiết này để giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo L. Đồng thời bị cáo L cho rằng bị
cáo bị cáo đang đi học nên xin được hưởng án treo để có điều kiện tiếp tục việc học,
Hội đồng xét xử nhận thấy cấp thẩm áp dụng đối với bị cáo mức hình phạt 02
năm tù, nhưng bị cáo L chỉ 01 tình tiết giảm nhquy định tại điểm s khoản 1
Điều 51 nên không thỏa mãn điều kiện để được hưởng án treo theo quy định tại Điều
65 Bộ luật hình sự Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTPdẫn về án treo, hơn nữa với
hành vi phạm tội nêu trên, bị cáo cần thời gian cải tạo, giáo dục đkhi tái hòa
nhập cộng đồng có cơ hội trở thành người tốt hơn thì việc giáo dục nghề nghiệp mới
đạt hiệu quả, do vậy Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo
đối với bị cáo L.
Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát
viên, không chấp nhận lời trình bày của các bị cáo, bác toàn bộ kháng cáo của các bị
cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] V án phí hình sự: Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo
phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐNH:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015,
- Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Minh Q, Nguyễn Gia K1,
Nguyễn Huỳnh Gia L. Giữ nguyên Bản án hình sự thẩm số 03/2023/HS-ST.TE
ngày 02/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp.
Tuyên xử:
1/ Tuyên bố bị cáo Minh Q, Nguyễn Gia K1 Nguyễn Huỳnh Gia L
cùng phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Về hình phạt:
1.1 Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;
9
Xử phạt bị cáo Lê Minh Q 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi
chấp hành án.
1.2 Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 91
khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Huỳnh Gia L 02 (hai) năm tù. Thời hạn tính tngày
bắt bị cáo đi chấp hành án.
1.3 Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều
91 và khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Gia K1 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày
27/10/2021. Tiếp tục tạm giam bị cáo Lê Nguyễn Gia K1 để đảm bảo thi hành án.
2/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không kháng cáo, kháng nghị
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
3/ Án phí: Các bị cáo Minh Q, Nguyễn Gia K1, Nguyễn Huỳnh Gia L
mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Bn án phúc thm có hiu lc pháp lut k t ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND tỉnh Đồng Tháp (4);
- VKSND tỉnh Đồng Tháp;
- Công an tỉnh Đồng Tháp;
- Sở tư pháp tỉnh Đồng Tháp;
- Cục THADS tỉnh Đồng Tháp;
- Bị cáo (3);
- Lưu HSVA(2). VP(5) 20b. (LTTT).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
(đã ký)
Trần Văn Mười
Tải về
Bản án 413/2023/HS-PT Bản án 413/2023/HS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án 413/2023/HS-PT Bản án 413/2023/HS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất