Bản án số 37/2022/HNGĐ-ST ngày 20/07/2022 của TAND huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 37/2022/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 37/2022/HNGĐ-ST ngày 20/07/2022 của TAND huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Kỳ Sơn (TAND tỉnh Nghệ An)
Số hiệu: 37/2022/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/07/2022
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ/việc:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 37/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Ngày 20 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kỳ Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 29/2022/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2022 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2022/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2022/QĐST-DS ngày 24/6/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lương Thị H, sinh năm 1986.

HKTT: Bản C, xã M, huyện K, tỉnh Nghệ An;

Chỗ ở hiện nay: Bản Q, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Lô Bún P, sinh năm 1988.

Nơi cư trú: Bản C, xã M, huyện K, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt (Không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lương Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lô Bún P lấy nhau năm 2007, có đăng ký kết hôn ngày 18/7/2007 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An. Hôn nhân là hoàn toàn tự nguyện, không có sự ép buộc, không vi phạm về thủ tục và điều kiện kết hôn. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến khoảng năm 2016, thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính cách, lối sống hai người có sự khác biệt dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra căng thẳng, thiếu tôn trọng lẫn nhau, ngoài ra anh P còn sa vào tệ nạn ma túy. Hai bên đã cố gắng hàn gắn nhưng không thể hòa giải được, vợ chồng sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Hiện chị Lương Thị H không còn tình cảm nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Lô Bún P.

Về con chung: Chị H và anh P có 02 con chung là cháu Lô Đức H, sinh ngày 18/9/2009 và cháu Lô Thị Hà M, sinh ngày 27/4/2016. Nay ly hôn, chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Lô Thị Hà M cho đến khi đủ tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi), giao cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Lô Đức H và không yêu cầu bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung và các khoản nợ chung: Chị Lương Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa: Sau khi thụ lý đơn khởi kiện, thông báo thụ lý vụ án, qua xác minh anh Lô Bún P thường xuyên vắng mặt tại địa phương, đi đâu và làm gì không ai biết, anh Lô Bún P cũng không khai báo với chính quyền địa phương về việc thay đổi nơi cư trú, Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai tại Ủy ban nhân dân xã M và tại bản C, xã M, huyện K, tỉnh Nghệ An là nơi cư trú cuối cùng của bị đơn. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn anh Lô Bún P vẫn vắng mặt, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nên Tòa án không thể tiến hành các thủ tục tố tụng theo đúng quy định tại Điều 204, 207, 208 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Tòa án thụ lý đúng thẩm quyền, xác định quan hệ tranh chấp;

Trong quá trình điều tra thu thập chứng cứ Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc thu thập chứng cứ, tống đạt đảm bảo quyền của đương sự. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử thực hiện đúng theo trình tự từ Điều 239 đến Điều 260 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của Thư ký phiên tòa được thực hiện đúng quy định tại Điều 51 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của đương sự: Bị đơn vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định tại Điều 70,72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xử:

Về hôn nhân: Cho chị Lương Thị H và anh Lô Bún P được ly hôn;

Về con chung: Giao 02 con chung là cháu Lô Đức H, sinh ngày 18/9/2009 và cháu Lô Thị Hà M, sinh ngày 27/4/2016 cho chị Lương Thị H được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung cho đến khi đủ tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với anh Lô Bún P do chị Lương Thị H không yêu cầu.

Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn chị Lương Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: Nguyên đơn chị Lương Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn chị Lương Thị H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Lô Bún P có địa chỉ cư trú tại xã M, huyện K, tỉnh Nghệ An. Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Sau khi thụ lý vụ kiện Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành tốt các quyết định của Tòa án. Bị đơn thường xuyên vắng mặt tại địa phương, không chấp hành các quyết định của Tòa án, gây khó khăn cho công tác điều tra, thu thập chứng cứ. Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử và tống đạt cho đương sự hợp lệ nhiều lần nhưng tại phiên tòa hôm nay bị đơn vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lương Thị H và anh Lô Bún P tự nguyện kết hôn sau một thời gian tìm hiểu, kết hôn đúng điều kiện, nơi đăng ký kết hôn là tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An nên đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến khoảng năm 2016, thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính cách, lối sống hai người có sự khác biệt dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra căng thẳng, thiếu tôn trọng lẫn nhau, ngoài ra anh P còn sa đà vào tệ nạn ma túy. Hai bên đã cố gắng hàn gắn nhưng không thể hòa giải được, vợ chồng sống ly thân nhau từ năm 2019 đến nay. Xét thấy, hôn nhân của chị Lương Thị H và anh Lô Bún P đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cho chị Lương Thị H được ly hôn với anh Lô Bún P.

[4] Về con chung: Chị Lương Thị H và anh Lô Bún P có 02 con chung là cháu Lô Đức H, sinh ngày 18/9/2009 và cháu Lô Thị Hà M, sinh ngày 27/4/2016. Nay ly hôn, chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Lô Thị Hà M cho đến khi con đủ tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi), giao cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Lô Đức H. Nguyện vọng của cháu Lô Đức H cũng muốn được ở với bố. Tuy nhiên, hiện nay anh Lô Bún P thường xuyên vắng mặt tại địa phương, đi đâu và làm gì không ai biết, nên việc giao con chung là cháu Lô Đức H cho anh P nuôi dưỡng, chăm sóc là không đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con. Vì vậy, cần giao cả 02 con chung là cháu Lô Đức H, sinh ngày 18/9/2009 và cháu Lô Thị Hà M, sinh ngày 27/4/2016 cho chị Lương Thị H được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con đủ tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi) là phù hợp, đúng quy định, đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con.

Đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con: Do chị Lương Thị H không yêu cầu nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng đối với anh Lô Bún P. Trường hợp chị H nuôi con không đảm bảo quyền, lợi ích của con mà anh P có căn cứ chứng minh thì có quyền làm đơn thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn. Trường hợp anh P lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh P.

[5] Về tài sản chung và các khoản nợ chung: Nguyên đơn chị Lương Thị H không yêu cầu Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Các đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về việc giải quyết toàn bộ vụ án là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.

[7] Về án phí: Nguyên đơn chị Lương Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,Điều 147, Điều 227, Điều 228,Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ vào Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Lương Thị H.

1. Về hôn nhân: Cho chị Lương Thị H được ly hôn với anh Lô Bún P.

2. Về con chung: Giao 02 con chung là cháu Lô Đức H, sinh ngày 18/9/2009 và cháu Lô Thị Hà M, sinh ngày 27/4/2016 cho chị Lương Thị H được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con đủ 18 tuổi, trưởng thành. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với anh Lô Bún P do chị Lương Thị H không yêu cầu. Anh Lô Bún P có quyền, nghĩa vụ chăm sóc, thăm nom con chung không ai được cản trở. Trường hợp chị H là người trực tiếp nuôi con chung không đảm bảo quyền, lợi ích của con mà anh P có căn cứ chứng minh thì anh P có quyền yêu cầu Tòa án xem xét, thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Trường hợp anh P lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh P.

3. Về án phí: Chị Lương Thị H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn) đã nộp tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án theo biên lai thu số 0004237 ngày 01/4/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An. (Chị H đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm).

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Lương Thị H có quyền kháng cáo đến Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 20/7/2022). Bị đơn anh Lô Bún P vắng mặt, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định./

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất