Bản án số 359/2023/HS-PT ngày 12/06/2023 của TAND cấp cao về tội cướp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 359/2023/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 359/2023/HS-PT ngày 12/06/2023 của TAND cấp cao về tội cướp tài sản
Tội danh: 133.Tội cướp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao
Số hiệu: 359/2023/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/06/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Dương Thị H tội cướp tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO

TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

  ---------------------

Bản án số: 359/2023/HS-PT

Ngày 12 tháng 6 năm 2023

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

------------------------------------

 

 

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 359/2023/HS-PT NGÀY 12/06/2023 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 6 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 184/2023/TLPT-HS ngày 17 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo Dương Thị H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2023/HS-ST ngày 14/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.

Bị cáo có kháng cáo: Dương Thị H, sinh năm 1979 tại tỉnh Cà Mau; Giới tính nữ; Nơi cư trú: Ấp K, xã H, huyện C, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Cha ông Dương Văn T (đã chết), mẹ bà Nguyễn Thị C (đã chết); Chồng: Trần Tiệp K, sinh năm 1979 (đã ly hôn); Con: 03 người (lớn sinh năm 1998, nhỏ sinh năm 2012); Tiền án, tiền sự: Không. Bị can bị bắt tạm giam từ ngày 28/02/2022 đến nay, bị cáo có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo:

1. Luật sư Tôn Quách T – Công ty luật trách nhiệm hữu hạn LS thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Cà Mau, có mặt.

2. Luật sư Phạm Xuân K – Công ty luật trách nhiệm hữu hạn LS thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Cà Mau, có mặt.

(Ngoài ra còn có bị hại không kháng cáo và không liên quan đến kháng cáo)

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Dương Thị H và ông Võ Văn D ngụ số 84/115, khóm 8, Phường 7, thành phố C, tỉnh Cà Mau) quen biết nhau. Do cần tiền để trả nợ, Dương Thị H nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của ông Võ Văn D. Nên Dương Thị H nhắn tin qua Zalo hẹn ông Võ Văn D gặp nhau vào ngày 23/10/2021 tại phòng trọ của Dương Thị H ở ấp Thạnh Điền, xã Lý Văn Lâm, thành phố C để uống rượu cùng nhóm bạn làm chung Công ty của Dương Thị H. Đồng thời, Dương Thị H kêu ông Võ Văn D đeo lắc vàng và dây chuyền để Dương Thị H lấy uy tín với bạn của Dương Thị H, nhưng mục đích là để Dương Thị H tìm cách chiếm đoạt lắc và dây chuyền vàng của ông Võ Văn D đang đeo trên người.

Đến khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 23/10/2021, ông Võ Văn D đi đến phòng trọ của Dương Thị H như đã hẹn nhưng không thấy bạn của Dương Thị H, ông Võ Văn D hỏi thì Dương Thị H nói do Công ty test Covid-19 có người bị nhiễm Covid-19, nên nhóm bạn không đến. Lúc này, ông Võ Văn D nói khát nước nên Dương Thị H lấy 01 lon bia trong tủ lạnh (trong tủ lạnh có sẳn 02 lon bia), lấy nước đá bỏ vào ly thủy tinh, rót bia vào ly và lén bỏ vào ly bia 01 viên thuốc hiệu Tanasolene Alimemazinne rồi đưa cho ông Võ Văn D uống. Ông Võ Văn D uống một ngụm nghe đắng, nên không uống nữa, phần bia còn lại Dương Thị H uống hết và để lon bia đã khui vào tủ lạnh.

Một lúc sau, ông Võ Văn D gọi điện thoại cho bạn là ông Nguyễn Vĩnh P, sinh năm 1977, ngụ số 259, đường P, khóm 5, Phường 7, thành phố C đến nhậu; ông Võ Văn D mua một kết bia chai Sài Gòn để uống. Khi ông Nguyễn Vĩnh P đến, ông Võ Văn D kêu Dương Thị H lấy 02 lon bia còn trong tủ lạnh ra uống luôn, Dương Thị H lấy 02 lon bia ra, bật nắp lon bia thứ hai, lén bỏ vào lon bia này 01 viên thuốc hiệu Tanasolene Alimemazinne rồi để gần chỗ ông Võ Văn D, Dương Thị H lấy lon bia này rót vào ly của ông Võ Văn D cho ông Võ Văn D uống. Ông Võ Văn D uống một ngụm thấy đắng nên không uống nữa, Dương Thị H lấy ly bia này uống một ít rồi rót phần bia còn lại trong ly vào lon bia thứ nhất, để hai lon bia sang một bên. Cả ba người tiếp tục uống khoảng 03 chai bia Sài Gòn thì ông Nguyễn Vĩnh P ra về, Ông Võ Văn D và Dương Thị H tiếp tục ăn, uống, nói chuyện một lúc thì nghỉ và ông Võ Văn D nằm trên tấm nệm trong phòng trọ của Dương Thị H. Còn Dương Thị H dọn dẹp, lấy 02 lon bia có thuốc bỏ vào sọt rác trước dãy phòng trọ. Sau khi dọn dẹp xong, nhìn thấy ông Võ Văn D đã ngủ say nên Dương Thị H tháo, gỡ dây chuyền và lắc tay bằng vàng trên người ông Võ Văn D bỏ vào túi áo. Sau đó Dương Thị H điều khiển xe gắn máy đi đến tiệm vàng KT 2 mang vàng đã lấy được đến Phường 2, thành phố C bán cho tiệm vàng KT 2 (Dương Thị H bán chiếc lắc tay của ông Võ Văn D rồi mua lại 01 lắc tay vàng 24k trọng lượng 10 chỉ và 01 nhẫn bông mai vàng 24k trọng lượng 3,73 chỉ). Sau khi trừ tiền mua lắc và nhẫn còn dư lại số tiền từ việc bán lắc tay của ông Võ Văn D là 66.000.000 đồng, còn sợi dây chuyền của ông Võ Văn D thì Dương Thị H giữ lại, không bán).

Tại Kết luận định giá tài sản số: 98/KL-HĐ ĐGTS ngày 08/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 lắc vàng 18K trọng lượng 44 chỉ (vàng 610) giá 147.400.000 đồng; 01 dây chuyền vàng 18K trọng lượng 19,79 chỉ (vàng 610) giá 66.296.500 đồng, tổng giá trị 01 lắc vàng và 01 dây chuyền vàng là: 213.693.500 đồng (Hai trăm mười ba triệu sáu trăm chín mươi ba ngàn năm trăm đồng).

Tại Bản kết luận giám định pháp y về hóa pháp số: 01/HP-21 ngày 21/12/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Cà Mau; căn cứ vào Bản kết luận giám định pháp y về hóa pháp số MST 932/ĐC.2021, ngày 08/12/2021 của Trung tâm Pháp y Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

Mẫu máu (Kí hiệu M1), nước tiểu (Kí hiệu M2) có sự hiện diện của: Acetaminophen (Paracetamol); Caffeine; Alimemazine; Mẫu 02 vỏ lon bia rỗng hiệu Larue màu vàng (Kí hiệu M3) có sự hiện diện của: Acetaminophen (Paracetamol); Alimemazine; Mẫu 01 vỉ thuốc hiệu Tanasolene Alimemazine (Kí hiệu M4): Có sự hiện diện của Alimemazine; Mẫu máu, mẫu nước tiểu, 02 vỏ lon bia rỗng hiệu Larue màu vàng đều có thành phần chất Alimemazine giống với thành phần trong 01 vỉ thuốc hiệu Tanasolene Alimemazine.

Ảnh hưởng của các chất đến sức khỏe con người: Acetaminophen (Paracetamol) là thuốc giảm đau, hạ sốt; không có tác dụng gây mê hoặc gây ngủ; Caffeine là chất kích thích thần kinh trung ương yếu; không có tác dụng gây mê hoặc gây ngủ; Alimemazine là thuốc đối kháng thụ thể histamine, thuốc an thần; có tác dụng gây mê hoặc gây ngủ.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã trả và bồi thường cho bị hại. Bị hại Võ Văn D không yêu cầu gì và có đơn xin bãi nại không xử lý hình sự đối với bị cáo.

- Vật chứng còn thu giữ trong vụ án: Hiện còn 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh của Dương Thị H. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã chuyển cho Cục Thi hành án dân sự tỉnh Cà Mau quản lý.

Tại Cáo trạng số: 77/CT – VKS – P1 ngày 30 tháng 11 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau truy tố bị cáo Dương Thị H về tội “Cướp tài sản”theo điểm a khoản 3 Điều 168 Bộ luật hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 06/2023/HS-ST ngày 14/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau đã quyết định:

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 168; Điều 47; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, 54 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên bố: Bị cáo Dương Thị H phạm tội “Cướp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Dương Thị H 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 28/02/2022.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm, và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Ngày 20/02/2022 bị cáo Dương Thị H kháng cáo bản án sơ thẩm xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:

- Bị cáo Dương Thị H khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo như bản án sơ thẩm đã quy kết là đúng, không oan. Nhưng mức hình phạt mà án sơ thẩm tuyên phạt đối với bị cáo là quá nặng, nên bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt để được sớm trở về nuôi con còn nhỏ không có người chăm sóc, nuôi dưỡng.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến về việc thực hiện quy định pháp luật tố tụng hình sự của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được đảm bảo, đơn kháng cáo của các bị cáo làm trong hạn luật định, đủ điều kiện giải quyết phúc thẩm.

Về nội dung kháng cáo: Xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Dương Thị H mức án 10 năm tù về tội “Cướp tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 168 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Dương Thị H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

- Người bào chữa cho bị cáo Dương Thị H – Luật sư Phạm Xuân K tranh luận: Thống nhất với bản án sơ thẩm về tội danh đã quy kết đối với bị cáo. Về hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 10 năm tù là có phần nghiêm khắc, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã khắc phục toàn bộ thiệt hại, được bị hại bãi nại; gia đình bị cáo có công với cách mạng; hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là mẹ đơn thân nuôi con nhỏ đang đi học; tính chất của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện mang tính giản đơn, từ đó giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Người bào chữa cho bị cáo Dương Thị H – Luật sư Tôn Quách T tranh luận: Bị cáo Dương Thị H là lao động chính trong gia đình, một mình bị cáo phải nuôi con nhỏ đang tuổi đi học, rất cần sự chăm sóc của mẹ, từ khi bị cáo bị bắt thì con của bị cáo phải nhờ nhiều người nuôi dưỡng, chăm sóc. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt để bị cáo được sớm trở về chăm sóc cho con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo đảm bảo hình thức, trong thời hạn, đủ điều kiện giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp lời khai của bị hại, cùng với tài liệu và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án án có đủ căn cứ xác định: Ngày 23/10/2021 Dương Thị H 02 lần bỏ thuốc gây ngủ (hiệu Tanasolene Alimemazine) vào lon bia của ông Võ Văn D làm ông Võ Văn D uống vào ngủ say, sau đó Dương Thị H gỡ dây chuyền và lắc tay bằng vàng trên người ông Võ Văn D gồm: 01 lắc vàng 18K, trọng lượng 44 chỉ 01 dây chuyền vàng 18k, trọng lượng 19,79 chỉ. Tổng giá trị tài sản là: 213.693.500 đồng (Hai trăm mười ba triệu sáu trăm chín mươi ba ngàn năm trăm đồng). Do đó Bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hiểm lớn cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sỡ hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, để đảm bảo việc giáo dục và răn đe, phòng ngừa chung.

Khi quyết định hình phạt, Bản án sơ thẩm đã xem xét và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bồi thường toàn bộ cho bị hại; bị cáo có cha và ông nội là có công cách mạng; bị hại có đơn xin bãi nại cho bị cáo theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự và tuyên phạt bị cáo với mức hình phạt 10 năm tù là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[4] Tại cấp phúc thẩm, bị cáo Dương Thị H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới theo quy định của pháp luật. Nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và lời đề nghị của Luật sư đề nghị giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Xét ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với nhận định trên.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Dương Thị H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Dương Thị H.

2. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 06/2023/HS-ST ngày 14/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau về hình phạt đối với bị cáo Dương Thị H.

2.1. Tuyên bố bị cáo Dương Thị H phạm tội “Cướp tài sản”.

2.2. Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 168; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Bị cáo Dương Thị H 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 28/02/2022. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

3. Bị cáo Dương Thị H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

                                                     

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM

THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

(Đã ký)

 

 

 

 
Tải về
Bản án 359/2023/HS-PT Bản án 359/2023/HS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án 359/2023/HS-PT Bản án 359/2023/HS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất