Bản án số 34/2023/DS-ST ngày 06/07/2023 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 34/2023/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 34/2023/DS-ST ngày 06/07/2023 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đồng Nai
Số hiệu: 34/2023/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/07/2023
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: tranh chấp hợp đồng đặt cọc giữa bà Nguyễn thị T và Công ty C
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN LONG THÀNH Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH ĐỒNG NAI
Bản án số: 34/2023/DS-ST
Ngày: 06/7/2023
V/v: “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
chuyển nhượng Quyền sử dụng đất”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH – TỈNH ĐỒNG NAI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Đình Trung
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Nguyễn Văn Ba.
2. Ông Nguyễn Ngọc Nam.
- Thư phiên tòa: Thùy Linh– Thư Tòa án nhân dân huyện
Long Thành.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành tham gia phiên
tòa: Bà Lê Thị Hồng Kiểm sát viên.
Trong ngày 06/7/2023, tại Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng
Nai xét xử thẩm công khai vụ án thụ số: 142/2021/TLST – DS ngày
03/6/2021 về “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2023/QĐXXST–DS ngày 24/5/2023
Quyết định hoãn phiên tòa số 686/2023/QĐST-DS ngày 12/6/2023 giữa các đương
sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1964.
Địa chỉ: Số C, đường số E, khu phố B, phường C, Quận B, TP H Chí Minh.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Văn T1, sinh năm 1968.
Địa chỉ: 3 P, Phường A, quận G, TP Hồ Chí Minh (văn bản ủy quyền ngày
16/11/2018).
- Bị đơn: Công ty C.
Địa chỉ: D T, Phường A, Quận A, TP Hồ Chí Minh.
Địa chỉ mới: 56/10, Tô Hiến T2, P, Quận A, TP Hồ Chí Minh
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị Kim N Tổng Giám đốc.
Địa chỉ: 02-29.03 khối nhà ORCHID 2 Khu phức hợp HADOCENTROSA,
200 đường C, Phường A, Quận A, TP Hồ Chí Minh.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Công ty cổ phần B.
Địa chỉ: D, đường P, Phường G, quận P, TP Hồ Chí Minh
2
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Nguyên T3 hoặc Thị Mỹ
N1.
Địa chỉ: D, đường P, Phường G, quận P, TP Hồ Chí Minh.
+ Công ty cổ phần L.
Địa chỉ: C, khu phố L, Quốc lộ E, phường T, TP B, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Dương Văn Đ
Địa chỉ: E D, Phường A, quận P, TP Hồ Chí Minh (văn bản ủy quyền ngày
21/3/2023)
Ông T2 có mặt; Công ty cổ phần C vắng mặt; ông T3Công ty cổ phần L
có đơn xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản a giải tại phiên tòa, đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn, ông Lê Văn T1 trình bày:
Vào giữa tháng 12/2014, bà Nguyễn Thị T được nhân viên tư vấn bất động
sản của Công ty cổ phần B (gọi tắt là Công ty B) là đơn vị môi giới giới thiệu đất
nền thuộc dán Khu dân cư A, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai do Công ty cổ phần
C (gọi tắt là ng ty C) làm chủ đầu tư. Khi tư vấn, nhân viên giới thiệu dự án có
đầy đủ tính pháp lý và cam kết khi mua sẽ được ngân hàng hỗ trợ cho vay vốn để
thanh toán. Do có nhu cầu mua đất để làm nhà ở và tin tưởng vào lời cam kết của
nhân viên vấn nên T bán nhà của mình tại Quận B, TP Hồ Chí Minh được
800.000.000đ để đặt mua 02 nền nhà số đất LKV 03-25 L1 với giá
mỗi nền là 658.300.000đ. Tổng cộng 02 nền là 1.316.000.000đ.
Ngày 25/12/2016, T đặt cọc 20.000.000đ để đặt mua 02 nền đất. Ngày
26/12/2016, T và Công ty C hợp đồng nguyên tắc số 72/HĐNT-VHP,
73/HĐNT-VHP để chuyển nhượng quyền sử dụng đất 02 đất trên. Căn cứ vào
hợp đồng, T đã đóng tiền đợt 1 (60% gtrị hợp đồng) cho 02 lô đất với số tiền
789.960.000đ.
Sau khi ký hợp đồng nguyên tắc thanh toán đợt 1, T làm hồ vay
vốn như cam kết thì không ngân hàng nào cho vay, bà T yêu cầu Công ty C
cung cấp giấy tờ pháp thì Công ty không cung cấp. Sau khi tìm hiểu thì T
được biết tại thời điểm hợp đồng, Công ty C không giấy tờ o để chứng
minh đủ điều kiện được chuyển nhượng quyền sử dụng đất, vi phạm Điều 194
Luật đất đai năm 2013 Điều 41 Nghị định s43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi
hành Luật đất đai; vi phạm Điều 55 Luật kinh doanh bất động sản năm 2014.
Ngoài ra, trong hợp đồng nguyên tắc hai bên đã ký, Công ty C dùng các từ ngữ
như góp vốn đầu tư, hoàn tất việc góp vốn… trong khi thực chất đây là hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Đây là một giao dịch dân sự giả tạo mà Công
ty C sdụng để che dấu giao dịch khác. Điều này vi phạm Điều 19 Nghị định
99/2015 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật nhà ở, cấm chủ đầu tư áp dụng
các hình thức huy động vốn.
Sau khi phát hiện sự việc, T đã nhiều lần đề nghị Công ty C giải thích
nhưng Công ty không giải thích mà còn lấy lý doT vi phạm hợp đồng, không
3
đóng tiền đợt 2 để hủy hợp đồng đã ký, chiếm đoạt số tiền T đã đóng.
vậy, T khởi kiện, yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Long Thành tuyên bố Hợp
đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 72/HĐNT-VHP,
73/HĐNT-VHP giữa Công ty C Nguyễn Thị T ngày 26/12/2016 hiệu;
buộc Công ty C trả lại cho bà T số tiền 789.960.000đ; Bồi thường cho T do
phải bán nhà đi thuê nhà để ở từ ngày 26/12/2016 đến nay là 120.000.000đ.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn Công ty cổ phần C ủy quyền cho
Nguyễn Hồng Cẩm T4Nguyễn Thị T5 trình bày:
Ngày 25/12/2016, Nguyễn Thị Tuyết k phiếu đặt chỗ với Công ty B
bên môi giới của Công ty C với giá trị đặt chỗ 20.000.000đ để mua 02 nền đất ký
hiệu LKV 03-25, LKV 03-26. Trong ngày 26/12/2016, bà T Công ty C 02
Hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng đất lần lượt số 72/HĐNT-
VHP, 73/HĐNT-VHP để bà T được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất 02
nền nên trên thuộc Dự án Khu dân cư A, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai với giá trị
từng lô là 658.300.000đ. Ngày 26/12/2016, bà T đã thanh toán đợt 1 cho Công ty
B tổng số tiền 789.960.000đ cho cả 02 lô, tương ứng 60% giá trị của mỗi hợp đồng
(đã bao gồm tiền cọc). Công ty C đã nhận đủ tiền từ Công ty B.
Tuy nhiên, sau khi Hợp đồng nguyên tắc và thanh toán đợt 1, T không
tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thanh toán đã thỏa thuận. Căn cứ theo tiến độ thanh
toán được ghi trong các Hợp đồng nguyên tắc tại khoản 4.3 Điều 4 thì trong vòng
01 tháng kể từ ngày ký hợp đồng nguyên tắc, bà T thanh toán tiếp cho Công ty C
15% tổng giá trị mỗi hợp đồng, tương đương 98.754.000đ/lô. Tuy nhiên, quá thời
hạn 7 ngày, kể từ ngày đến hạn thanh toán mà bà T vẫn không thực hiện nghĩa vụ
thanh toán cho ng ty C theo thỏa thuận ban đầu. Như vậy, T vi phạm điều
khoản thanh toán thì Công ty C được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng
nguyên tắc với T theo đó T không được nhận lại số tiền thanh toán đợt 1.
Về pháp của Dự án Khu dân A: Dựa vào các văn bản pháp luật cho
thấy Dự án An Phước hoàn toàn là dự án có thật, đã được cơ quan có thẩm quyền
ban hành các quyết định cần thiết theo đúng các quy định của pháp luật để Chủ
đầu và các nhà đầu thứ cấp khác tiến hành thực hiện các hoạt động kinh
doanh. Trên thực tế, tại dự án này, hầu hết các khách hàng đã nhận được giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các nền đất đặt mua.
Về tính pháp của thỏa thuận, hợp đồng kết giữa Công ty cổ phần L
(gọi tắt Công ty L) Công ty C: Sau khi được quan có thẩm quyền giao
đất, ng ty cổ phần L (Chủ đầu tư) đã tiến hành Hợp đồng chuyển nhượng
quyền s dụng đất tại Khu dân A, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai số
0109/2016/HĐMB/LTL ký ngày 30/9/2016 với Công ty cổ phần C. Theo đó, chủ
đầu cho phép Công ty C thực hiện kinh doanh các sản phẩm nền đất tại
dự án Khu dân A thông qua việc chủ đầu cho phép Công ty C được bố t
văn phòng giao dịch tại dán đến hết tháng 12/2017 để kinh doanh (điểm c khoản
5.1 Điều 5 Hợp đồng 0109) và tại điểm c khoản 5.2 Điều 5 Hợp đồng 0109 cũng
quy định Chủ đầu tư được miễn trừ trách nhiệm các tranh chấp, khiếu nại của
bên thứ ba (khách hàng của Công ty C) với các hành vi liên quan đến việc ký kết
thực hiện hợp đồng mua bán, chuyển nhượng giữa Công ty C với bên thứ ba.
4
Tính đến thời điểm hiện nay, Hợp đồng 0109 đã được Công ty C Chủ đầu
thanh lý do thời hạn thực hiện đã xong.
Ngoài ra, trên cơ sở Hợp đồng 0109, ngày 04/10/2016 ng ty C hợp
đồng dịch vụ môi giới độc quyền bất động sản số 01/2016/HĐDVMGĐQ/VHP-
VAP với Công ty B. Công ty C đã ủy quyền cho Công ty B thu tiền đặt chỗ, tiền
thanh toán đợt 1. Tính đến nay, Hợp đồng môi giới đã được Công ty C Công
ty V lý do các bên đã hoàn thành mọi nghĩa vụ theo hợp đồng với nhau.
Về tính pháp của các thỏa thuận kết giữa Công ty C Nguyễn Thị
T: Xét về mặt chthể và năng lực hợp đồng nguyên tắc thì tại thời điểm
kết, Công ty C T đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Xét về mặt tự nguyện
thì T có đầy đủ thông tin về Dự án Khu dân A, nền đất đặt mua, giá, vị trí
xem xét thực địa. Việc T Hợp đồng nguyên tắc là hoàn toàn tự nguyện,
không sự lừa dối, ép buộc nào từ ng ty C bên thứ ba. Xét về mặt mục đích
và nội dung của Hợp đồng nguyên tắc thì không vi phạm điều cấm của pháp luật
và đạo đức xã hội.
Từ các cơ sở nêu trên, Công ty C đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của bà T.
Tại Đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 06/4/2023, người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan Công ty cổ phần B do ông Trần Nguyên T3 làm đại
diện theo ủy quyền trình bày:
Trước đây Công ty B đã môi giới ký cọc lô đất ký hiệu D5-07 thuộc Dự án
KDC A, huyện L theo phiếu đặt chỗ ngày 25/12/2016 cho bên mua
Nguyễn Thị T và bên bán là Công ty C.
Ngày 26/12/2016, Nguyễn Thị T Công ty C biên bản thỏa thuận
về việc chuyển toàn bộ số tiền cọc trên sang 02 lô đất hiệu LKV 03-25, LKV
03-26 thuộc Dự án khu dân A. Sau đó, Công ty B đã chuyển toàn bộ số tiền đặt
cọc và giấy tờ cọc để Công ty C và bà Nguyễn Thị T Hợp đồng nguyên tắc số
72/HĐNT-VHP và số 73/HĐNT-VHP. Kể tthời điểm này, Công ty B đã chuyển
giao toàn bộ số tiền và hồ sơ đặt cọc của bà T cho Công ty C để T ký các hợp
đồng nguyên tắc nêu trên. Do dó, mọi quyền và nghĩa vụ của Công ty B đã được
chuyển giao sang Công ty C. Từ đó, Công ty B không còn nghĩa vụ đối với giao
dịch giữa T và Công ty C.
Tại văn bản số 1404/2023/CV-LTL ngày 14/4/2023, người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan Công ty cổ phần L trình bày.
Ngày 30/9/2016, Công ty L Công ty C hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất tại Khu dân A, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai số
0109/2016/HĐMB/LTL. Theo đó, hai bên thỏa thuận chuyển nhượng 112 nền tại
Dự án Khu dân A do Công ty L chủ đầu tư. Giá chuyển nhượng, phương
thức tiến độ thanh toán được quy định cụ thể tại Phụ lục 1 của Hợp đồng. Ngoài
hợp đồng chuyển nhượng, giữa hai bên không ký kết các hợp đồng khác liên quan
đến các nền đất của Dự án.
Công ty C là Bên nhận chuyển nhượng các sản phẩm là nền đất của Dự án,
không phải đơn vcung cấp dịch vụ cho Dự án. Do vậy, Công ty L không
5
bất kỳ văn bản ủy quyền nào về việc cho phép Công ty C được thực hiện kinh
doanh các sản phẩm nền đất của Dự án. Công ty C hợp đồng giao dịch với
bên thứ ba phải tuân theo các quy định của pháp luật liên quan đến chuyển nhượng
bất động sản và phải chịu trách nhiệm về các giao dịch của mình.
Theo quy định tại Điều 4.3 của Hợp đồng chuyển nhượng, Công ty L sẽ bàn
giao từng nền đất khi nhận đ70% tổng giá trị mỗi nền đất (tương ứng với khi
Công ty C hoàn thành nghĩa vụ thanh toán đến Đợt 4, tức ngày 20/5/2017) bàn
giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm thủ tục đăng bộ khi nhận đủ 100%
giá trị Hợp đồng(tương ứng khi Công ty C hoàn thành nghĩa vụ thanh toán đến
đợt 6, tức ngày 20/8/2017). Tại thời điểm ngày 26/12/2016, Công ty C mới nộp
tiền đặt cọc và thanh toán đợt 1 giá trị hợp đồng chuyển nhượng cho Công ty L.
Việc Công ty C Hợp đồng nguyên tắc với T quyết định của Công
ty C, không liên quan đến Công ty L, Công ty C phải tự chịu trách nhiệm về
hành vi của mình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành có ý kiến:
- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử Thư ký: Về
việc thụ vụ án, xác định quan hệ pháp luật, cách ttụng, về việc xác minh,
thu thập các tài liệu chứng cứ vụ án và thời hạn chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử đều
được Thẩm phán thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử Thư phiên tòa đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền
hạn của mình.
- Về nội dung vụ án: Ngày 26/12/2016, thông qua Công ty B, Nguyễn
Thị T Công ty C đã ký Hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất đối với 02 nền đất lô số LKV 03-25 thửa số 427, tờ bản đồ số 41 có diện tích
119m
2
LKV 03-26 thửa số 428, tờ bản đồ số 41 có diện tích 119m
2
thuộc Dự
án Khu dân cư A. Sau khi ký Hợp đồng nguyên tắc, bà T đã đặt cọc cho Công ty
C tổng số tiền của 02 nền đất là 789.960.000đ, có phiếu thu đầy đủ và được Công
ty C thừa nhận nên đầy là tình tiết không phải chứng minh.
Sau khi ký hợp đồng nguyên tắc, bà T yêu cầu Công ty C cung cấp các giấy
tờ vmặt pháp của dự án nhưng Công ty C không cung cấp được nên T
không đóng tiền đợt 2 và khởi kiện ra Tòa án.
Tại thời điểm hai bên hợp đồng nguyên tắc ngày 26/12/2016, các nền
đất của Dự án Khu dân A vẫn đứng tên chủ đầu Công ty L. Công ty C
không được Công ty L y quyền để các hợp đồng liên quan đến quyền sdụng
đất thuộc dự án. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với toàn bộ dự
án 112 nền đất giữa ng ty L Công ty C cũng chưa hoàn tất. vậy, ngày
26/12/2016, Công ty C hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất là vi phạm về chủ thể, hợp đồng bị vô hiệu, yêu cầu của T là có căn cứ nên
đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.
Do hợp đồng hiệu nên đề nghị Hội đồng xét xử buộc Công ty C trả lại
cho T số tiền đã nhận 789.960.000đ. Đương sự không yêu cầu giải quyết hậu
quả là lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu nên không đặt ra xem xét giải quyết.
6
Ngoài ra, T còn yêu cầu Tòa án buộc Công ty C bồi thường 120.000.000đ
do phải đi thuê nhà. Quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa, đại diện nguyên
đơn xin rút yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng:
- Về thủ tục thụ lý vụ án và thẩm quyền giải quyết:
Đối tượng tranh chấp của các bên liên quan đến bất động sản thuộc Dự
án Khu dân A, A, huyện L, tỉnh Đồng Nai. vậy, thẩm quyền giải quyết
tranh chấp thuộc Tòa án nơi bất động sản theo quy định tại điểm c, khoản 1
Điều 39 Bộ luật ttụng dân sự. Tòa án nhân dân huyện Long Thành tiến hành thụ
lý, giải quyết vụ án tranh chấp giữa Nguyễn Thị T Công ty cổ phần C
đúng quy định của pháp luật.
- Quan hệ pháp luật:
Nguyễn Thị T đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Long
Thành tuyên bố Hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
72/HĐNT-VHP, 73/HĐNT-VHP hiệu yêu cầu Tòa án buộc Công ty C trả
lại tiền cọc đã nhận. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Long Thành thụ lý đơn khởi
kiện xác định quan htranh chấp “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 B luật tố tụng dân
sự.
- Bị đơn ng ty C đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa đến lần thứ
hai nhưng vẫn vắng mặt. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty C,
Công ty L đơn xin vắng mặt trong các phiên tòa xét xử. Do đó, căn cứ Điều
227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Long Thành vẫn tiến
hành xét xử vắng mặt bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Tại đơn khởi kiện ngày 03/12/2018, bà Nguyễn Thị T yêu cầu Công ty C
phải bồi thường thiệt hại do phải đi thuê nhà với số tiền 120.000.000đ. Quá trình
giải quyết vụ án tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền xin rút yêu cầu
này. Việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện,
không trái pháp luật đạo đức hội nên Hội đồng xét xử đình chỉ một phần yêu
cầu khởi kiện.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về Hợp đồng nguyên tắc số 72/HĐNT-VHP, 73/HĐNT-VHP:
Ngày 26/12/2016, bà Nguyễn Thị Tng ty C ký Hợp đồng nguyên tắc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với 02 nền đất số LKV 03-25 thửa số
427, tờ bản đồ số 41 có diện tích 119m
2
và LKV 03-26 thửa số 428, tờ bản đồ số
41 diện tích 119m
2
. Cả hai thửa đất đều thuộc Dự án Khu dân A, A,
huyện L, tỉnh Đồng Nai. T đã đặt cọc theo tiến độ đợt 1 của Hợp đồng
394.980.0000đ/01 lô, đã bao gồm 20.000.000đ tiền đặt chỗ, tổng cộng 02 hợp
đồng là 789.960.000đ, tương ứng với 60% giá trị hợp đồng. Điều này cũng được
Công ty C thừa nhận.
7
Do bà T không vay được ngân hàng nên đã tìm hiểu thì được biết Công ty
C không có giấy tờ gì để chứng minh đủ điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng
đất nên hai bên phát sinh tranh chấp.
[2.2] Về hiệu lực của hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất.
Dự án Khu dân A thuộc A, huyện L, tỉnh Đồng Nai đã được UBND
tỉnh Đ ban hành Quyết định số 601/QĐ-UBND ngày 11/3/2009 phê duyệt nhiệm
vụ quy hoạch xây dựng chi tiết tỷ lệ 1/500, quy mô 45ha do Công ty cổ phần L
làm chủ đầu tư. Ngày 30/9/2016, Công ty L Công ty C hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất tại Khu dân cư A, A, huyện L, tỉnh Đồng Nai số
0109/2016/HĐMB/LTL, kèm theo 03 Phụ lục, trong đó Phụ lục 01 thỏa thuận về
giá chuyển nhượng, phương thức thanh toán lần 2, chiết khấu thanh toán; Phụ lục
02 về danh sách nền đất chuyển nhượng; Phụ lục 03 về các điều khoản quy định
xây dựng tại dự án.
Theo thỏa thuận, hai bên chuyển nhượng 112 nền đất tại Dán Khu dân
A do Công ty L chủ đầu tư; Tổng giá trị hợp đồng 68.359.238.400đ được chia
làm 02 lần thanh toán. Lần thanh toán thứ nhất đặt cọc 2.000.000.000đ sau 03
ngày hợp đồng; Lần thanh toán thứ hai 66.359.238.400đ chia làm 6 đợt như
sau:
+ Đợt 1: chậm nhất ngày 01/12/2016 thanh toán 15% tổng giá trị thanh toán
lần 2 tương đương 9.953.885.760đ.
+ Đợt 2: chậm nhất ngày 20/01/2017 thanh toán 20% tổng giá trị thanh toán
lần 2 tương đương 13.271.847.680đđ.
+ Đợt 3: chậm nhất ngày 20/3/2017 thanh toán 25% tổng giá trị thanh toán
lần 2 tương đương 16.589.809.600đ.
+ Đợt 4: chậm nhất ngày 20/5/2017 thanh toán 20% tổng giá trị thanh toán
lần 2 tương đương 13.271.847.680đ.
+ Đợt 5: chậm nhất ngày 20/7/2017 thanh toán 15% tổng giá trị thanh toán
lần 2 tương đương 9.953.885.760đ.
+ Đợt 6: chậm nhất ngày 20/8/2017 thanh toán 5% tổng giá trị thanh toán
lần 2 tương đương 3.317.961.920đ.
Tại Điều 4.3 hai bên thỏa thuận thời hạn bàn giao nền đất như sau: Bàn giao
từng nền đất khi Công ty L nhận đủ 70% tổng giá trị ca mỗi nền đất hoặc toàn
bộ 112 nền đất khi bên Công ty L nhận được 70% tổng giá trị hợp đồng; Bàn giao
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hai bên làm thủ tục đăng bộ sang tên ngay
khi Công ty L nhận đủ 100% tổng giá trị hợp đồng.
Theo tiến độ thanh toán tại Phụ lục 01 của hợp đồng thì chậm nhất ngày
20/5/2017, Công ty L mới nhận được 70% tổng giá trị hợp đồng và khi đó Công
ty L mới bàn giao các nền đất tại Phụ lục 2 cho Công ty C. Điều này cũng đã
được Công ty L xác định tại văn bản trình bày ý kiến.
8
Tại phụ lục 02 của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
0109/2016/HĐMB/LTL thì 02 nền đất số LKV 03-25 thuộc thửa số 427, tờ bản
đồ số 41 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sBI 616740 diện
tích 119m
2
và nền số LKV 03-26 thuộc thửa số 428, tờ bản đồ số 41 đã được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BI 616741 có diện tích 119m
2
.
Như vậy, tại thời điểm bà Nguyễn Thị T và Công ty C ký hợp đồng nguyên
tắc chuyển nhượng quyền sdụng đất ngày 26/12/2016 thì 02 nền đất LKV 03-
25, LKV 03-26 vẫn thuộc quyền quản lý, sdụng toàn quyền quyết định của
Công ty L.
Theo đại diện của Công ty C thì chủ đầu tư là Công ty L cho phép Công ty
C thực hiện kinh doanh các sản phẩm là nền đất có tại dự án khu dân cư A thông
qua việc chủ đầu cho phép Công ty C được bố tvăn phòng giao dịch tại dự án
đến hết tháng 12/2017 đkinh doanh. Tuy nhiên, Công ty C không đưa ra được
tài liệu, chứng cứ chứng minh việc ng ty C được Công ty L ủy quyền đthực
hiện các giao dịch liên quan đến các quyền sử dụng đất thuộc Dự án Khu dân
A. Công ty L cũng xác định ngoài hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất đã
ký, Công ty L không bất kỳ văn bản nào cho phép Công ty C được thực hiện
kinh doanh các sản phẩm nền đất của Dự án. Do đó, lời trình bày của Công ty
C là không có căn cứ nên không được chấp nhận.
Do tại thời điểm hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, Công ty C không phải chsử dụng đất, không được chủ sử dụng đất ủy
quyền thực hiện các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất là các nền đất LKV
03-25, LKV 03-26 Dự án Khu dân cư A nên các Hợp đồng số 72/HĐNT-VHP và
số 73/HĐNT-VHP ngày 26/12/2016 hiệu theo quy định tại Điều 127 Bộ luật
dân sự năm 2005, yêu cầu khởi kiện của bà T có căn cứ nên được chấp nhận.
[2.3] Về hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu:
Quá trình giải quyết vụ án T xác định đã giao cho Công ty C số tiền của
02 hợp đồng 789.960.000đ. Công ty C ng xác định đã nhận được số tiền
789.960.000đ của bà T do Công ty B là đơn vị môi giới giao lại.
Điều 137 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “1. Giao dịch dân sự vô hiệu
không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể
từ thời điểm xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban
đầu, hoàn trcho nhau những đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện
vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức
thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi
thường”.
Do Hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 72/HĐNT-
VHP và số 73/HĐNT-VHP ngày 26/12/2016 vô hiệu nên Công ty C phải hoàn trả
cho Nguyễn Thị T số tiền đã nhận là 789.960.000đ. Các đương sự không yêu
cầu bồi thường thiệt hại nên không đặt ra xem xét giải quyết.
[3] Về chi phí tố tụng.
9
Để có căn cứ giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Long Thành đã tiến
hành các biện pháp thu thập chứng cứ, chi pthu thập chứng cứ 281.500đ, ông
T1 đại diện theo y quyền của T đã nộp đủ. Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn nên Công ty C phải hoàn trả lại cho bà T số tiền 281.500đ.
[4] Về án phí DSST: Bị đơn Công ty C phải nộp 600.000đ án phí không
giá ngạch đối với yêu cầu tuyên 02 hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền
sử dụng đất vô hiệu 35.598.400đ án phí giá ngạch đối với yêu cầu giải quyết
hậu quả giao dịch dân sự hiệu của T được Tòa án chấp nhận. Hoàn trả cho
bà T tiền tạm ứng án phí đã nộp.
[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành phù hợp
với nhận định ca Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm c, khoản 1 Điều 39; Điều 91, 147;
khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228; Điều 203, 220, 235, 264, 266khoản 1
Điều 273 của B luật tố tụng dân sự.
- Căn cứ Điều 122, 127, 137, 358 Bluật Dân sự năm 2005; Điều 357, 468,
688 của Bộ luật dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 166, 168 Luật đất đai năm 2013.
- Căn cứ khoản 2 Điều 9; khoản 1 Điều 37 của Luật kinh doanh bất động
sản;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị T đối với
Công ty cổ phần C.
Tuyên bố Hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
72/HĐNT-VHP số 73/HĐNT-VHP ngày 26/12/2016 được kết giữa Công ty
cổ phần C và bà Nguyễn Thị T vô hiệu.
Buộc Công ty cổ phần C phải trả cho Nguyễn Thị T số tiền 789.960.000đ
(bảy trămm mươi chín triệu chín trăm sáuơi ngàn đồng).
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T đối với Công
ty cổ phần C về việc bồi thường tiền thuê nhà 120.000.000đ (một trăm hai mươi
triệu đồng).
3. Về chi phí tố tụng: Buộc Công ty cổ phần C phải trả cho bà Nguyễn Th
Tuyết 2 (hai trăm tám mươi mốt triệu lăm trăm đồng) tiền chi phí tố tụng.
4. Về án phí DSST:
Công ty C phải nộp 600.000đ án phí DSST không có giá ngạch
35.598.400đ án phí DSST có giá ngạch.
10
Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị T 19.649.475 tiền tạm ứng án phí đã nộp theo
Biên lai thu số 0016778 ngày 19/12/2018 của cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự
Quận 10, TP Hồ Chí Minh.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp
quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày
đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong
tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy đnh tại khoản 2 Điều 468
Bộ luật sân sự năm 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành
án dân sự.
4. Bà T quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên
án. Công ty cổ phần C, Công ty cổ phần B, Công ty cổ phần L được quyền kháng
cáo bản án trong hạn 15 ngày ktừ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản
án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Nơi nhận: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
- TAND tỉnh Đồng Nai;
- VKS ND tỉnh Đồng Nai;
- T.H.A dân sự H. Long Thành;
- VKS H. Long Thành;
- Các đương sự.
- Lưu HS, VP.
Nguyễn Đình Trung
Tải về
Bản án số 34/2023/DS-ST Bản án số 34/2023/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất