Bản án số 30/2022/HS-ST ngày 03/06/2022 của TAND huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 30/2022/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 30/2022/HS-ST ngày 03/06/2022 của TAND huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Chợ Mới (TAND tỉnh Bắc Kạn)
Số hiệu: 30/2022/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 03/06/2022
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CM, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 30/2022/HS-ST NGÀY 03/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 03 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện CM, tỉnh Bắc Kạn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 31/2022/HSST, ngày 19 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2022/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Lục Văn B, sinh năm 1972; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Tổ 10, thị trấn ĐT, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 7/12; Dân tộc: Nùng; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lục Văn T và bà Đỗ Thị C; Có vợ là Lộc Thị R, có 01 con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 2013, bị TAND huyện CM, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 07 năm tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Ngày 21/8/2018 chấp hành xong toàn bộ bản án, nay đã được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 18/12/2021 đến ngày 27/12/2021 hủy bỏ biện pháp ngăn chăn, áp dụng Lệnh Cấm đi khỏi nơi cư trú từ đó đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lục Văn H, sinh năm 1996; Địa chỉ: Tổ 4, thị trấn ĐT, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 19 giờ 50 phút ngày 18/12/2021, tại Km 116+100 Quốc lộ 3 thuộc tổ 8, thị trấn ĐT, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn, tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế và ma túy Công an huyện CM, tỉnh Bắc Kạn phát hiện Lục Văn B có biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy. Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện và thu giữ tại túi áo khoác bên trái B đang mặc trên người 01 túi bóng zip trong suốt, bên trong có 03 gói nhỏ gói bằng giấy trắng có dòng kẻ, bên trong là chất màu trắng dạng cục, nghi là ma túy, niêm phong trong phong bì kýH B1; thu giữ tại túi quần bên trái B đang mặc 01 gói nhỏ bằng giấy trắng có chữ in, bên trong có chất màu trắng dạng cục, niêm phong trong phong bì kýH B2 và 01 túi zip trong suốt bên trong có chứa chất màu trắng dạng cục, vụn nhỏ, niêm phong trong phong bì kýH B3. Ngoài ra còn thu giữ của B gồm: số tiền 2.700.000đ; 01 điện thoại di động nhãn H Samsung J2 màu vàng cát đã qua sử dụng, bên trong có 01 thẻ sim; 01 xe mô tô nhãnH HONDA Airblade cũ màu đỏ đen BKS: 97B1-834.81 kèm đăng ký xe.

Trên cơ sở đó, hồi 21 giờ cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CM, tỉnh Bắc Kạn tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở và khu vực phụ cận của Lục Văn B. Quá trình khám xét phát hiện và thu giữ trong quyển sách đặt tại nền nhà trong phòng ngủ của Lục Văn B 01 gói nhỏ gói bằng giấy bạc, bên trong có 01 viên nén màu hồng, nghi là ma túy, niêm phong trong phong bì kýH NB1.

Quá trình điều traB khai nhận 05 gói nhỏ chất màu trắng dạng cục và bột thu giữ trên ngườiB là ma túy, loại Heroine, 01 viên nén màu hồng thu giữ tại phòng ngủ củaB là ma túy loại Hồng phiến. Số ma túy trên có được là do vào khoảng 08 giờ ngày 18/12/2021,B một mình đi xe buýt đến khu vực Bưu điện huyện PL tỉnh Thái Nguyên tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đâyB mua của một người đàn ông tên là Đ, không rõ họ tên đầy đủ và địa chỉ cụ thể 04 gói Heroine và 01 gói là 01 viên Hồng phiến với giá là 900.000đ. Sau khi mua được ma túy, về nhàB lấy một phần ma túy ở trong túi zip ra sử dụng, khi sử dụng xong còn thừaB gói vào bằng giấy trắng có chữ in.B khẳng định 05 gói nhỏ ma túy và 01 viên hồng phiến là củaB; điện thoại Công an tạm giữ là củaB dùng để liên lạc hàng ngày, không liên quan đến hành vi tàng trữ ma túy, xe mô tô là do B mượn của Lục Văn H để đi lại.

Tại Biên bản mở, đóng niêm phong, cân xác định khối lượng ngày 18/12/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CM, tỉnh Bắc Kạn xác định: Mẫu chất màu trắng dạng cục có trong phong bì ký hiệu B1 có khối lượng là 0,840 gam, niêm phong trong phong bì ký hiệu B6 gửi giám định; Mẫu chất màu trắng dạng cục có trong phong bì ký hiệu B2 có khối lượng là 0,264 gam, niêm phong trong phong bì ký hiệu B7 gửi giám định; Mẫu chất màu trắng dạng cục và vụn có trong phong bì ký hiệu B3 có khối lượng là 0,994 gam, niêm phong trong phong bì ký hiệu B8 gửi giám định; Viên nén màu hồng trong phong bì ký hiệu NB1 có khối lượng 0,034 gam, niêm phong trong phong bì ký hiệu B9 gửi giám định. Toàn bộ phong bì và giấy gói cũ được niêm phong trong phong bì ký hiệu B10.

Tại bản Kết luận giám định số: 10/KTHS-MT ngày 25/12/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu B6 gửi giám định là chất ma tuý, loại Heroine, có khối lượng là 0,840 gam; Mẫu chất màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu B7 gửi giám định là chất ma tuý, loại Heroine, có khối lượng là 0,264 gam; Mẫu chất màu trắng dạng cục và bột trong phong bì ký hiệu B8 gửi giám định là chất ma tuý, loại Heroine, có khối lượng là 0,994 gam; Mẫu chất màu hồng dạng cục trong phong bì ký hiệu B9 gửi giám định là chất ma tuý, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,034 gam. Sau giám định, cơ quan giám định đã hoàn trả 2,010 gam mẫu chất Heroine và 0,010 gam mẫu chất Methamphetamine cùng phong bì, giấy gói cũ được niêm phong vào phong bì ký hiệu T10 hoàn trả lại cơ quan trưng cầu.

Tại phiên tòa Lục Văn B thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về khối lượng ma túy cũng như kết luận giám định.

Tại phiên toà sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Tại Cáo trạng số: 17/CT-VKSCM ngày 17/4/2022 của VKSND huyện CM truy tố Lục Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại bản luận tội của Viện kiểm sát tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, cụ thể như sau:

- Tuyên bố Lục Văn B phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt: Bị cáo Lục Văn B từ 18 đến 24 tháng tù.

- Về hình phạt bổ sung: Đề nghị phạt bổ sung 5.000.000đ.

- Biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

* Cần tịch thu tiêu hủy gồm:

+ 01 phong bì niêm phong ký hiệu T10, bên trong có 2,010 gam ma túy loại Heroine và 0,010 gam ma túy loại Methamphetamine cùng phong bì, bao gói cũ;

+ 01 phong bì ký hiệu B10 bên trong có giấy gói tang vật.

* Cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung và số tiền 2.700.000đ.

* Đối với chiếc xe mô tô BKS: 97B1 - 834.81: Đây là xe mô tô của anh Lục Văn H, bị cáo mượn để đi lại, do vậy cần trả lại cho chủ sở hữu là Lục Văn H, kèm theo chìa khóa và đăng ký xe.

* Trả lại cho bị cáo 01 thẻ sim có trong điện thoại.

- Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo ăn năn hối hận về hành vi của mình, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện CM, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện CM, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nội dung vụ án: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình là vào khoảng 8 giờ, ngày 18/12/2021,B một mình đi xe buýt đến khu vực Bưu điện huyện PL, tỉnh Thái Nguyên tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây B mua của một người đàn ông tên là Đ, không rõ họ tên đầy đủ và địa chỉ cụ thể 04 gói Heroine và 01 gói là 01 viên Hồng phiến với giá là 900.000đ. Sau khi mua được ma túy,B đem về nhà, đã lấy một phần ma túy trong túi zip ra sử dụng một ít, số còn lại B gói bằng giấy màu trắng có chữ in, tổng cộng là 05 gói nhỏB cất giấu trên người, 01 gói nhỏ là viên Hồng phiến B cất giấu trong phòng ngủ của mình. Việc B đi mua ma túy và cất giấu ma túy trên người cũng như cất giấu tại phòng ngủ không có ai biết, khoảng 21 giờ ngày 18/12/2021, khiB đang đi từ nhà bố mẹ đẻ từ tổ 8, thị trấn ĐT, huyện CM về nhà thì bị Công an phát hiện và bắt giữ.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở để khẳng định hành vi của bị cáo Lục Văn B đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Điều luật có nội dung:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

…c) Heroine… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

…i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.

…5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 500.000.000đồng…".

Cáo trạng số 17/CT-VKSCM ngày 17/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CM, tỉnh Bắc Kạn truy tố đối với bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm i khoản 1 Điều 249/BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý về các chất ma tuý của nhà nước, là mối hiểm họa cho cộng đồng, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương và phải được xử lý bằng pháp luật hình sự.

Ngoài hình phạt chính, khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự còn quy định hình phạt bổ sung là phạt tiền, xét thấy cần áp dụng hình phạt bổ sung ở mức thấp nhất vẫn đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu, biết tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích để thỏa mãn cơn nghiện của bản thân. Năm 2013, bị TAND huyện CM, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 07 năm tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy", sau khi chấp hành án xong trở về địa phương sinh sống được một thời gian bị cáo lại tái nghiện. Chính quyền địa phương xác nhận bị cáo là lao động chính trong gia đình, vợ bị cáo thường xuyên ốm đau, không lao động được, bị cáo còn đang nuôi con đang tuổi ăn học, vì vậy xét thấy cần cân nhắc khi lượng hình, cần có mức án phù hợp để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận về hành vi của mình, vì vậy được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Lục Văn B tại khu vực Bưu điện huyện PL, tỉnh Thái Nguyên do B không biết rõ đầy đủ họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, vì vậy Cơ quan điều tra không có cơ sở để xem xét xử lý trong vụ án này.

[5] Đối với chiếc xe mô tô BKS: 97B1 - 834.81: Xác định đây là xe do anh Lục Văn H cho bị cáo mượn làm phương tiện đi lại, không biết bị cáo tàng trữ ma túy khi sử dụng xe. Tại phiên tòa anh H yêu cầu được nhận lại xe mô tô của mình, do vậy cần trả lại xe mô tô BKS : 97B1 - 834.81 cho chủ sở hữu là Lục VănH, kèm theo chìa khóa và đăng ký xe theo quy định của pháp luật.

[6] Về vật chứng trong vụ án:

* Cần tịch thu tiêu hủy gồm: 01 phong bì niêm phong ký hiệu T10, bên trong có 2,010 gam ma túy loại Heroine và 0,010 gam ma túy loại Methamphetamine cùng phong bì, bao gói cũ; 01 phong bì ký hiệu B10 bên trong có giấy gói tang vật.

* Tạm giữ để đảm bảo thi hành án của bị cáo gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J2 có gắn 01 thẻ sim và số tiền 2.700.000đ.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

1. Tuyên bố: Bị cáo Lục Văn B phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm i khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt bị cáo Lục Văn B 18 (Mười tám ) tháng tù, thời hạn tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giữ (từ ngày 18/12/2021 đến ngày 27/12/2021).

- Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) để nộp ngân sách Nhà nước.

Việc thi hành khoản tiền phạt bổ sung được thực hiện theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 và Điều 26 Luật Thi hành án dân sự.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

* Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 phong bì niêm phong ký hiệu T10, bên trong có 2,010 gam ma túy loại Heroine và 0,010 gam ma túy loại Methamphetamine cùng phong bì, bao gói cũ; 01 phong bì ký hiệu B10 bên trong có giấy gói tang vật.

* Tạm giữ của bị cáo gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J2 có gắn 01 thẻ sim được niêm phong trong phong bì ký hiệu B5 và số tiền 2.700.000đ (Hai triệu bảy trăm nghìn đồng) được niêm phong trong phong bì ký hiệu B12 để đảm bảo thi hành án.

* Trả lại cho chủ sở hữu là Lục Văn H chiếc xe mô tô BKS: 97B1 - 834.81 kèm theo chìa khóa và đăng ký xe.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/5/2022 giữa Cơ quan Công an huyện CM và Chi cục Thi hành án dân sự huyện CM).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất