Bản án số 28/2020/HS-PT ngày 10/02/2020 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 28/2020/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 28/2020/HS-PT ngày 10/02/2020 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 28/2020/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 10/02/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 28/2020/HS-PT NGÀY 10/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 442/2019/HSPT ngày 30/12/2019 đối với bị cáo Triệu Văn T, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 58/2019/HS-ST, ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Triệu Văn T; sinh năm 1982, tại tỉnh Cao Bằng; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm R, xã I, huyện B, tỉnh Cao Bằng; nơi thường trú: Thôn B, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Dao; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Triệu Dào N (đã chết) và bà Triệu Mùi S; có vợ là Hoàng Mùi P (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 09/7/2019 đến ngày 18/7/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên toà.

2. Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Đình Đ – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Triệu Văn T là người sử dụng ma túy từ năm 2017. Sáng ngày 09/7/2019, T đi xe buýt từ thị trấn huyện E lên thành phố B, mục đích đi lên huyện Đ, tỉnh Đắk Nông đón con gái của T về huyện E. Khi đến thành phố B, T bắt xe ôm đi đến khu vực đường A, thành phố B mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Đang đi trên đường A, T thấy hai người thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) đang đi xe mô tô cùng chiều trên đường, nghi ngờ rằng hai người này cũng là người sử dụng ma túy nên T hỏi “Biết chỗ nào mua giúp anh 300”. Ý của T là nói với hai người thanh niên biết chỗ nào bán ma túy thì mua hộ cho T 300.000 đồng. Hai thanh niên này đồng ý, sau đó T đưa cho người ngồi sau xe mô tô số tiền 300.000 đồng, hai người này nói T đi theo họ, khi đến đoạn đường Y, hai người này dừng xe lại, người ngồi sau xuống xe đứng đợi cùng với T bên đường còn người điều khiển xe mô tô đi được khoảng 15 phút thì quay lại đưa cho T 02 gói giấy bạc màu đồng rồi nói với T “một gói 100, một gói 200”. Sau khi đưa ma túy cho T, hai người thanh niên này bỏ đi còn T đi ra khu vực bãi đất trống gần đó, lấy ma túy trong gói giấy bạc nhỏ pha chế và dùng kim tiêm mang theo đó chích vào cơ thể, gói còn lại T để trong túi quần. Sau khi sử dụng ma túy xong, T tiếp tục đi xe ôm ra bến xe buýt rồi đi lên huyện Đ, tỉnh Đắk Nông để đón con gái. Đón được con, T đi xe buýt về thành phố B, sau đó tiếp tục đi xe buýt về đến bến xe huyện E ở thôn C, thị trấn E. Lúc này vào khoảng 16 giờ cùng ngày, T bị lực lượng Công an huyện Ea Súp bắt quả tang, thu giữ trên người của T 01 gói giấy bạc màu đồng, bên trong có chứa ma túy.

Tại kết luận giám định số: 576/GĐMT-PC09, ngày 12/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Chất rắn màu trắng đựng trong một gói giấy bạc được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1200 gam, loại: Heroin.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 58/2019/HS-ST, ngày 18-11-2019 của Tòa án nhân dân huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Triệu Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Triệu Văn T 01 (Một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án hoặc tự nguyện thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 09/7/2019 đến ngày 18/7/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 02/12/2019, bị cáo Triệu Văn T kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung đề nghị Tòa án án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Triệu Văn T vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Vì mức hình phạt 01 năm 03 tháng tù mà bản án sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo là không có căn cứ chấp nhận. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Người bào chữa trình bày quan điểm bào chữa cho bị cáo: Bị cáo Triệu Văn T có hoàn cảnh khó khăn, bố bị cáo mất sớm, mẹ bị cáo hiện đã già yếu; bị cáo đã ly hôn và có trách nhiệm nuôi con nhỏ; sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế khó khăn nên nhận thức pháp luật còn hạn chế; đồng thời khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ không lớn, chỉ có 0,1200 gam. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để bị cáo sớm hòa nhập với cộng đồng, chăm lo cho gia đình.

Bị cáo đồng ý với ý kiến của người bào chữa và không bào chữa, tranh luận gì thêm; bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 16 giờ ngày 09/7/2019, tại thôn C, thị trấn E, huyện E, bị cáo Triệu Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Heroine có trọng lượng 0,1200 gam thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Súp phát hiện bắt quả tang. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Triệu Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Triệu Văn T, Hội đồng xét xử xét thấy: Mức hình phạt 01 năm 03 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo Triệu Văn T là có phần nghiêm khắc, bởi lẽ: Bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn nên nhận thức pháp luật của bị cáo có phần hạn chế; sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; đồng thời khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ không lớn. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện tính khoan hồng, nhân đạo của pháp luật, giúp bị cáo sớm hòa nhập với xã hội để trở thành công dân có ích.

[3] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Triệu Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Triệu Văn T - Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 58/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Triệu Văn T 01 (Một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 09/7/2019 đến 18/7/2019.

[2] Về án phí: Bị cáo Triệu Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Tải về
Bản án số 28/2020/HS-PT Bản án số 28/2020/HS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất