Bản án số 27/2025/HNGĐ-ST ngày 09/05/2025 của TAND TX. Chí Linh, tỉnh Hải Dương về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 27/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 27/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 27/2025/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 27/2025/HNGĐ-ST ngày 09/05/2025 của TAND TX. Chí Linh, tỉnh Hải Dương về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TX. Chí Linh (TAND tỉnh Hải Dương) |
Số hiệu: | 27/2025/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 09/05/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chị Lương Thị Nga khởi kiện chia tài chung sau ly hôn. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THỊ XÃ KINH MÔN
TỈNH HẢI DƯƠNG
Bản án số: 27/2025/HNGĐ-ST
Ngày: 09-5-2025
""V/v chia tài sản sau khi ly hôn"
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Lê Thị Thu Hằng .
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Bà Đinh Thị Tin
2. Bà Trần Thị Nhi .
- Thư ký phiên toà: Bà Đào Thị Thu Hoài - Thư ký Toà án nhân dân thị
xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn tham gia phiên tòa:
Bà Hoàng Thị Thuý Diệp - Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 5 năm 2025 tại hội trường xét xử tòa án nhân dân thị xã
Kinh Môn, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số
314/2024/TLST - HNGĐ ngày 11 tháng 10 năm 2024 về “chia tài sản sau khi
ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2025/QĐXX-ST ngày 11
th¸ng 4 n¨m 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Lương Thị N, sinh năm 1983 (có mặt).
Nơi ĐKHKTT: Khu dân cư N, phường L, thị xã K, tỉnh Hải Dương.
Nơi ở hiện nay: Số nhà A, Ngõ G, Xóm A, phố H, phường H, thị xã K,
tỉnh Hải Dương.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1976 (có mặt).
Địa chỉ: Khu dân cư N, phường L, thị xã K, tỉnh Hải Dương.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1946 (vắng mặt, có đề nghị vắng mặt tại
phiên tòa) và bà Hoàng Thị H, sinh năm 1950(có mặt khi xét xử, vắng mặt khi
tuyên án); địa chỉ: Khu dân cư N, phường L, thị xã K, tỉnh Hải Dương .
2. UBND phường L.
Địa chỉ: Phường L, thị xã K, tỉnh Hải Dương.
Đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Văn G. Chức vụ: Chủ tịch UBND.
Đại diện uỷ quyền: Ông Phạm Văn B , chức vụ: Phó chủ tịch UBND
2
(vắng mặt, có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Chị Lương Thị N và anh Nguyễn Văn T thuận tình ly hôn theo quyết định
công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số
295/2019/QĐST- HNGĐ ngày 18-10-2019 của Tòa án nhân dân thị xã Kinh
Môn, tỉnh Hải Dương. Anh chị giải quyết về quan hệ hôn nhân và con chung, về
tài sản chung tự thỏa thuận giải quyết. Sau khi ly hôn chị N và anh T không thể
tự thỏa thuận giải quyết với nhau được về tài sản chung. Nay chị N đề nghị Tòa
án chia tài sản sau khi ly hôn, anh T đồng ý.
Anh chị có tài sản chung gồm: Quyền sử dụng thửa đất số 962, tờ bản đồ
số 07, diện tích 230,3m
2
trong đó 100m
2
đất ở; 130,3 m
2
đất vườn thừa hợp pháp
tại
phố L, phường L, thị xã K, tỉnh Hải Dương trị giá 1.660.000.000đ, nguồn gốc
do bố mẹ anh T là ông Nguyễn Văn C và bà Hoàng Thị H tặng cho từ năm 2015.
Các tài sản trên đất gồm: nhà ở mái bằng xây dựng năm 2005 trị giá
77.898.000đ; mái tôn xà gỗ thép trước nhà xây dựng năm 2011 trị giá
2.419.000đ; mái tôn xà gỗ thép sảnh trái nhà xây dựng năm 2015 trị giá
4.022.000đ; nhà phụ mái bằng xây dựng năm 2015 trị giá 53.823.000đ; nhà chăn
nuôi xây dựng năm 2015 trị giá 8.597.000đ; sân nền xây dựng năm 2015 trị giá
1.682.000đ; tổng cộng 148.500.000đ nguồn gốc xây dựng bằng nguồn tiền của
anh chị. Đối với một số tài sản chung khác gồm bàn ghế, ti vi, tủ lạnh, đồ dùng
sinh hoạt anh chị tự thỏa thuận phân chia, không yêu cầu tòa án giải quyết; về nợ
chung: không có.
Quan điểm của chị N: Từ khi ly hôn chị dọn ra ngoài thuê nhà ở, không
có chỗ ở ổn định nên chị đề nghị tòa án chia nhà và đất để có chỗ ở. Tuy nhiên
trong quá trình giải quyết chị được biết diện tích đất trong sổ bìa đỏ có lấn sang
phần đất của ông|C, bà H, một phần nhà thuộc đất công của UBND phường nên
chị đề nghị Tòa án chia cho chị được hưởng giá trị chênh lệch bằng tiền. Chị xác
định công sức đóng góp của chị và anh T như nhau nên đề nghị tòa án chia theo
tỷ lệ 50/50. Chị đề nghị rút yêu cầu xác định lại mốc giới, không yêu cầu Tòa án
giải quyết nữa.
Quan điểm của anh T: Anh đồng ý việc chia đôi tài sản cho chị N vì công
sức đóng góp như nhau. Anh đề nghị tòa án chia nhà đất bằng hiện vật, kể cả
phải phá nhà để chia anh cũng nhất trí. Anh không biết việc chồng lấn bìa đỏ và
nhà xây dựng trên phần đất của UBND phường.
Quan điểm của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ
án:
Quan điểm của ông Nguyễn Văn C bà Hoàng Thị H: Năm 2015 vợ chồng
ông bà tự nguyện tặng cho vợ chồng chị N anh T thửa đất số 962, tờ bản đồ số
07, diện tích 230,3m
2
. Sau khi được tặng cho đất vợ chồng N T làm nhà ở không
xây liền nhà ông bà mà để trống ra một khoảng để làm lối đi. Nhà ông bà xây
dựng từ năm 1983. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án vợ chồng ông bà
mới biết phần đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên vợ
3
chồng N T chồng lần sang phần đất có nhà chính của ông bà. Thực tế mọi thủ
tục liên quan đến việc tặng cho do bà mang bìa đỏ của ông bà lên UBND chia
thành 03 bìa, địa chính không xuống đo vẽ do vậy có việc chồng lấn bà không
biết. Hiện phần đất nhà ông bà giáp ranh với nhà anh T có tường bao để phân
chia ranh giới được sử dụng lâu dài, ổn định không có tranh chấp. Nhưng nay
anh chị ly hôn ông bà xác định thửa đất là của ông bà, ngôi nhà là hai anh chị
xây dựng. Vì vậy nay anh chị yêu cầu chia tài sản vợ chồng sau khi ly hôn, ông
bà không cho đất nữa, vợ chồng N T tự chia nhà với nhau. Ồng bà không có yêu
cầu độc lập hay yêu cầu phản tố nào cần đề nghị toà án giải quyết trong vụ án.
Ông bà nhất trí với việc rút yêu cầu xác định mốc giới của chị Lương Thị N.
Quan điểm của UBND phường L: Qua kiểm tra hiện trạng thực tế với giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của nhà anh T chị N xác định hiện nay ông C và
bà H đang sử dụng một phần diện tích nằm trong giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của anh T và chị N. Và trên phần đất lấn đất có nhà ở của ông bà xây
dựng từ năm 1984. Một phần công trình nhà ở chính đã xây lấn ra mương và đất
nông nghiệp. Diện tích đất mương vẫn thuộc quản lý của UBND phường. Quan
điểm của địa phương nếu có thay đổi về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hay
phải thu hồi giải phóng mặt bằng, lúc đó địa phương sẽ có ý kiến sau. Đề nghị
Tòa án tạm giao nhà trên diện tích đất thuộc UBND cho anh T quản lý.
Bảng tổng hợp định giá tài sản ngày 31-3-2025: Giá trị còn lại của nhà
cửa, vật kiến trúc là: 174.737.000 đồng. Giá trị đất tại thửa đất số 962, tờ bản đồ
số 07 thuộc phố L, phường L có giá là 16.500.000đồng/m
2
đất ở; 80.000đ/m
2
đối
với đất nông nghiệp,vườn thừa.
Tại phiên tòa:
Chị Lương Thị N trình bày giữ nguyên yêu cầu khởi kiện chị xác định
công sức đóng góp của của hai vợ chồng trong việc tạo lập khối tài sản chung
Nng nhau. Tuy nhiên thửa đất số 962, tờ bản đồ số 07 thuộc phố L, phường L do
anh chị được ông Nguyễn Văn C và bà Hoàng Thị H tặng cho nên chị đồng ý
chia tỷ lệ 40/60, chị hưởng 40% còn anh T hưởng 60% còn về ngôi nhà và các
công trình trên đất chị đề nghị được chia ½. Chị đồng ý giao nhà đất cho anh T,
chị sẽ lấy tiền chênh lệch tài sản. Đối với chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và lệ
phí định giá chị tự nguyện chịu cả không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Anh Nguyễn Văn T trình bày: Anh nhất trí chia tài sản chung của anh và
chị N là nhà đất và các công trình được xây dựng trên thửa đất số 962, tờ bản đồ
số 07 thuộc phố L, phường L. Anh nhất trí với đề xuất chia theo tỷ lệ do chị N
yêu cầu nhưng anh đề nghị chia nhà đất bằng hiện vật, anh không đồng ý lấy cả
nhà đất và trả chị N bằng tiền.
Bà Hoàng Thị H trình bày: Bà và ông Nguyễn Văn C nhất trí tặng cho anh
T chị N thửa đất số 962, tờ bản đồ số 07 thuộc phố L, phường L. Nhưng nay anh
chị chia tài sản chung bà không đồng ý chia đất. Đối với việc hiện trạng nhà đất
không đúng như trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà không biết vì
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp sau khi xây dựng các công trình.
4
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn phát biểu ý kiến về việc
tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội
đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng
xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau: Áp dụng
Điều 59, Điều 60, Điều 62 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 157, Điều
165 Bộ luật tố tụng dân sự; Luật phí lệ phí và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14
ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét
xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lương Thị N về việc chia tài sản
sau khi ly hôn. Xác định khối tài sản chung chị Lương Thị N và anh Nguyễn
Văn T trong thời kỳ hôn nhân gồm: Quyền sử dụng thửa đất số 962, tờ bản đồ số
07, diện tích 230,3m
2
tại Phố L, phường L, thị xã K, tỉnh Hải Dương trị giá
1.660.000.000đ (đã làm tròn). Các tài sản trên đất gồm: nhà ở mái bằng xây
dựng năm 2005 trị giá 77.898.000đ; mái tôn xà gỗ thép trước nhà xây dựng năm
2011 trị giá 2.419.000đ; mái tôn xà gỗ thép sảnh trái nhà xây dựng năm 2015 trị
giá 4.022.000đ; nhà phụ mái bằng xây dựng năm 2015 trị giá 53.823.000đ; nhà
chăn nuôi xây dựng năm 2015 trị giá 8.597.000đ; sân nền xây dựng năm 2015 trị
giá 1.682.000đ; tổng cộng 148.500.000đ.
Giao cho anh Nguyễn Văn T sử dụng toàn bộ diện tích đất tại thửa số số
962, tờ bản đồ số 07, diện tích 230,3m
2
địa chỉ tại phố L, phường L, thị xã K,
tỉnh Hải Dương và toàn bộ tài sản trên đất gồm nhà và các công trình tổng giá
trị anh T được hưởng 1.660.000.000đ (trị giá đất) + 148.500.000 đ (trị giá tài
sản trên đất) = 1.070.000.000đ (đã làm tròn). Trong đó một phần nhà ở mái
bằng, nhà phụ, mái tôn xà gỗ thép trước nhà và sau nhà cạnh phía Bắc xây dựng
trên phần đất của UBND phường L. Tạm giao các công trình này cho anh
Nguyễn Văn T sử dụng, trường hợp sau này UBND phường L có yêu cầu thì
anh T có trách nhiệm di dời các tài sản trả lại đất cho UBND phường L. Anh
Nguyễn Văn T có nghĩa vụ trả chênh lệch tài sản cho chị Lương Thị N số tiền
738.000.000đ (đã làm tròn).
Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của chị Lương Thị N về việc yều cầu xác định
mốc giới, đòi quyền sử dụng đất.
Về án phí: Chị Lương Thị N và anh Nguyễn Văn T phải nộp án phí dân sự
sơ thẩm đối với phần giá trị tài sản chung được phân chia theo quy định của
pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1]. Về tố tụng:
Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Lương Thị N
5
khởi kiện đề nghị chia tài sản chung sau ly hôn đối với anh Nguyễn Văn T có
địa chỉ cư trú tại phố H, phường L, thị xã K, tỉnh Hải Dương nên vụ án thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Kinh Môn theo quy định tại
khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật
tố tụng dân sự.
Về sự có mặt của đương sự: Đại diện ủy quyền của UBND phường L và
ông Nguyễn Văn C đã được triệu tập hợp lệ có đề nghị được vắng mặt tại phiên
tòa nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân
sự tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của chị Lương Thị N về việc yêu cầu chia tài
sản sau khi ly hôn thì thấy:
Về nguồn gốc H thành tài sản: Thửa đất số 962, tờ bản đồ số 07, diện tích
230,3m
2
địa chỉ tại phố L, phường L, thị xã K, tỉnh Hải Dương được UBND
huyện K cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 17-11-2015 mang tên chị
N, anh T1 Cả hai anh chị xác nhận tài sản này được bố mẹ đẻ anh T là ông C, bà
H tặng cho trong quá trình anh chị chung sống. Ông C, bà H xác định việc tặng
cho là tự nguyện do vậy có căn cứ chấp nhận toàn bộ diện tích đất tại thửa số
962, tờ bản đồ số 07, diện tích 230,3m
2
địa chỉ tại phố L, phường L, thị xã K,
tỉnh Hải Dương là tài sản chung của chị N và anh T1 Tuy nhiên để đảm bảo
quyền lợi ích hợp pháp của đương sự, xét về công sức tạo lập do anh chị nhận
tặng cho từ ông C, bà H nên Hội đồng xét xử sẽ tính công sức cho anh T nhiều
hơn chị N. Ngoài ra vợ chồng còn có ngôi nhà và các tài sản khác trên đất, anh
chị xác định là tài sản chung nên có căn cứ cần được chấp nhận.
Từ những căn cứ trên HĐXX xác định công sức của anh T đóng góp vào
khối tài sản chung của vợ chồng nhiều hơn chị N nên cho anh T được hưởng
60% giá trị tài sản, chị N 40% giá trị tài sản là thửa đất, còn tài sản trên đất chia
tỷ lệ 50/50 mỗi người ½ giá trị. Tài sản chung của anh chị gồm quyền sử dụng
thửa đất số 962, tờ bản đồ số 07, diện tích 230,3m
2
địa chỉ tại phố L, phường L,
thị xã K, tỉnh Hải Dương, diện tích 230,3m
2
trị giá đất ở 100m
2
x
16.500.000đ/m
2
= 1.650.000.000đ; đất vườn thừa hợp pháp 130,3m
2
x
80.000đ/m
2
= 10.424.000đ; tổng giá trị thửa đất = 1.660.424.000đ. Giao cho anh
T được hưởng 1.660.424.000đ x 60% = 996.255.000đ, giao cho chị N được
hưởng 1.660.424.000đ x 40% = 664.169.000đ; giá trị tài sản trên đất trị giá =
148.500.000đ, chia ½ chị N và anh T mỗi người được hưởng 74.000.000đ (đã
làm tròn). Vậy tổng giá trị anh T được hưởng giá trị đất 996.255.000đ + giá trị
tài sản trên đất 74.000.000đ= 1.070.000.000đ (đã làm tròn); chị N được hưởng
giá trị đất 664.169.000đ + giá trị tài sản trên đất 74.000.000đ= 738.000.000đ (đã
làm tròn).
Xét về nguyện vọng giao nhà đất Hội đồng xét xử xét thấy. Chị N có
nguyện vọng được nhận giá trị tài sản phân chia bằng tiền, anh T đề nghị chia
nhà đất bằng hiện vật. Xét hiện trạng nhà đất có một phần diện tích nhà đất và
6
công trình phụ lấn sang diện tích đất do UBND phường quản lý, một phần diện
tích đất được cấp giấy chứng nhận do ông C bà H đang sử dụng, quan điểm của
UBND phường đề nghị Tòa án tạm giao cho anh T quản lý, sử dụng, trường hợp
sau này UBND phường L có yêu cầu thì anh T có trách nhiệm di dời các tài sản
trả lại đất cho UBND phường L. Do vậy việc phân chia bằng hiện vật không
đảm bảo quyền lợi cho các đương sự nên Hội đồng xét xử giao toàn bộ nhà đất
cho anh T sở hữu sử dụng, trả chênh lệch bằng tiền cho chị N là phù hợp.
Về giao hiện vật:
Do anh T, chị N thống nhất giao nhà cho anh T sử dụng nên HĐXX sẽ
giao cho anh Nguyễn Văn T sử dụng toàn bộ diện tích đất tại thửa số 962, tờ
bản đồ số 07, diện tích 230,3m
2
địa chỉ tại phố L, phường L, thị xã K, tỉnh Hải
Dương và toàn bộ tài sản trên đất gồm nhà và các công trình tổng giá trị anh T
được hưởng 1.660.424.000đ (trị giá đất) + 148.500.000 đ (trị giá tài sản trên
đất) = 1.800.000.000đ(đã làm tròn).
Anh Nguyễn Văn T có nghĩa vụ trả chênh lệch tài sản cho chị Lương Thị
N số tiền 738.000.000đ (đã làm tròn).
[2.2] Đối với yêu cầu xác định mốc giới và đòi quyền sử dụng đất. Trong
quá trình giải quyết chị Lương Thị N tự nguyện xin rút toàn bộ yêu cầu về việc
xác định mốc giới giữa thửa đất số 962, tờ bản đồ số 07 có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất mang tên chị N, anh T và thửa đất giáp ranh có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Nguyễn Văn C và bà Hoàng Thị H. Anh
T, ông C, bà H nhất trí với việc rút yêu cầu khởi kiện của chị N. Do vậy Hội
đồng xét thấy việc rút đơn của chị N hoàn toàn tự nguyện nên có căn cứ chấp
nhận đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện này của chị N.
[2.3] Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Chị Lương
Thị N tự nguyện nộp cả tiền lệ phí xem xét thẩm định tại chỗ định giá, không
yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết.
[3] Về án phí: Chị Lương Thị N phải nộp 33.500.000.000 đ án phí dân sự
sơ thẩm đối với phần giá trị tài sản chung được phân chia đối trừ vào số tiền
tạm ứng án phí 5.500.000đ đã nộp theo B lai thu số AA/2018/0005756 ngày 23-
3-2021 của Chi cục thi hành án thị xã Kinh Môn; chị Lương Thị N còn phải nộp
28.000.000đ án phí dân sự sơ thẩm; trả lại cho chị Lương Thị N số tiền tạm ứng
án phí 5.500.000đ đã nộp theo Biên lai thu số AA/2018/0006115 ngày 03-8-
2021 của Chi cục thi hành án thị xã Kinh Môn; Anh Nguyễn Văn T phải nộp
44.100.000 đ án phí dân sự sơ thẩm đối với phần giá trị tài sản chung được phân
chia theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
7
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 59, Điều 60 và Điều 62, Điều 110 Luật Hôn nhân và gia
đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều
147, Điều 157, Điều 165, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Điều 26 Luật Thi hành án dân sự; Luật phí lệ phí và Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lương Thị N về việc chia tài
sản sau khi ly hôn.
1. Xác định khối tài sản chung của chị Lương Thị N và anh Nguyễn Văn
T trong thời kỳ hôn nhân gồm:
Quyền sử dụng thửa đất số 962, tờ bản đồ số 07, diện tích 230,3m
2
(100m
2
đất ở; 130,3 m
2
đất vườn thừa hợp pháp),
địa chỉ: Phố L, phường L, thị
xã K, tỉnh Hải Dương trị giá 1.660.000.000đ (đã làm tròn).
Các tài sản trên đất gồm: nhà ở mái bằng xây dựng năm 2005 trị giá
77.898.000đ; mái tôn xà gỗ thép trước nhà xây dựng năm 2011 trị giá
2.419.000đ; mái tôn xà gỗ thép sảnh trái nhà xây dựng năm 2015 trị giá
4.022.000đ; nhà phụ mái bằng xây dựng năm 2015 trị giá 53.823.000đ; nhà chăn
nuôi xây dựng năm 2015 trị giá 8.597.000đ; sân nền xây dựng năm 2015 trị giá
1.682.000đ; tổng cộng 148.500.000đ.
2. Giao cho anh Nguyễn Văn T sử dụng toàn bộ diện tích đất tại thửa số
số 962, tờ bản đồ số 07, diện tích 230,3m
2
địa chỉ tại phố L, phường L, thị xã K,
tỉnh Hải Dương và toàn bộ tài sản trên đất gồm nhà và các công trình tổng giá
trị anh T được hưởng 1.660.000.000đ (trị giá đất) + 148.500.000 đ (trị giá tài
sản trên đất) = 1.070.000.000đ (đã làm tròn). Trong đó một phần nhà ở mái
bằng, nhà phụ, mái tôn xà gỗ thép trước nhà và sau nhà cạnh phía Bắc xây dựng
trên phần đất của UBND phường L. Tạm giao các công trình này cho anh
Nguyễn Văn T sử dụng, trường hợp sau này UBND phường L có yêu cầu thì
anh T có trách nhiệm di dời các tài sản trả lại đất cho UBND phường L.
Anh Nguyễn Văn T có nghĩa vụ trả chênh lệch tài sản cho chị Lương Thị
N số tiền 738.000.000đ (đã làm tròn).
Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của chị Lương Thị N về việc yều cầu xác định
mốc giới, đòi quyền sử dụng đất.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành khoản tiền
trên cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều
468 Bộ luật dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Anh Nguyễn Văn T và chị Lương Thị N có trách nhiệm làm thủ tục đăng

8
ký chuyển quyền sử dụng đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật.
Về án phí: Chị Lương Thị N phải nộp 33.500.000.000 đ án phí dân sự sơ
thẩm đối với phần giá trị tài sản chung được phân chia đối trừ vào số tiền tạm
ứng án phí 5.500.000đ đã nộp theo B lai thu số AA/2018/0005756 ngày 23-3-
2021 của Chi cục thi hành án thị xã Kinh Môn; chị Lương Thị N còn phải nộp
28.000.000đ án phí dân sự sơ thẩm; trả lại cho chị Lương Thị N số tiền tạm ứng
án phí 5.500.000đ đã nộp theo B lai thu số AA/2018/0006115 ngày 03-8-2021
của Chi cục thi hành án thị xã Kinh Môn; anh Nguyễn Văn T phải nộp
44.100.000 đ án phí dân sự sơ thẩm đối với phần giá trị tài sản chung được phân
chia.
Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Văn T và chị Lương Thị N, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn
15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt
có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án
hoặc từ ngày bản án được niêm yết;
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành
án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,9 Luật thi hành án dân sự.
Thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND thị xã Kinh Môn;
- Chi cục THADS TX Kinh Môn;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Thu Hằng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 18/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 14/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 23/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 16/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 13/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 12/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 12/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 09/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 05/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm