Bản án số 246/2023/HS-PT ngày 27-11-2023 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tội cướp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
  • 246_2023_HS-PT_ DAK LAK

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

  • 246_2023_HS-PT_ DAK LAK

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 246/2023/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 246/2023/HS-PT ngày 27-11-2023 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tội cướp tài sản
Tội danh: 133.Tội cướp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 246/2023/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/11/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Y T NIÊIÊ tội cướp tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐK LK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 246/2023/HS-PT
Ngày: 27 - 11 - 2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐK LK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Bằng
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Ngọc Sâm
Ông Y Phi Kbuôr
- Thư phiên tòa: Hoàng Thị Kim Duyên - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Bà Phan
Thị Ngọc Châu - Chức vụ: Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 11 năm 2023, tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm
công khai vụ án hình sự thụ số: 276/2023/TLPT-HS ngày 06 tháng 11 năm 2023
đối với bị cáo Y T NIÊ (Tên gọi khác: B). Do có kháng cáo của bị cáo Y T NIÊ đối
với Bản án hình sự thẩm số: 307/2023/HS-ST ngày 27/09/2023 của Tòa án nhân
dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
1. Bị cáo: Y T NIÊ (Tên gọi khác: Bui); Sinh ngày 17/6/1997; Tại tỉnh Đắk
Lắk; Nơi trú: Buôn T, D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Không; Trình
độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt
Nam; Con ông Y Oanh N1 (Tên gọi khác: Nguyễn Tấn O, đã chết) và bà Trần Thị S,
sinh năm 1965; Có vợ Lâm Thị Hoàng L, sinh năm 2000, có 01 con sinh năm 2022;
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 21/7/2022 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Công T - Luật Văn phòng L1, thuộc
đoàn Luật sư tỉnh Đ (có mặt). Địa chỉ: Số B N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
2. Bị hại: Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1995 (Vắng mặt). Nơi ĐKHKTT; Đội 7,
thôn P, Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Nơi hiện nay: Thôn C, E, TP ., tỉnh
Đắk Lắk.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị hại: Ông Đình D Luật
Văn phòng L2, thuộc đoàn Luật tỉnh Đ (Vắng mặt). Địa chỉ: Số B N, phường T,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
3. Người quyền lợi, ngha vụ liên quan: (Nhưng không triệu tập đến phiên
tòa).
3.1. Bà Phạm Thị T1, sinh năm 1992. Nơi ĐKHKTT: Thôn A, xã H, thành phố
B, tỉnh Đắk Lắk; Nơi  hiện nay: Thôn G, xã C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
3.2. Trần Thị S, sinh năm 1965. Địa chỉ: Buôn T, D, huyện K, tỉnh Đắk
Lắk.
3.3. Ông Đặng Quang H, sinh năm 1999. Nơi ĐKHKTT: Buôn Nc, E, huyện
K, tỉnh Đắk Lắk; Nơi  hiện nay: Số G L, phường A, quận G, TP ..
3.4. Ông Trần Đình V1, sinh năm 1997. Nơi ĐKHKTT: Buôn Tuôr A, D,
huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Nơi  hiện nay: P, số A tổ C khu phố B, phường T, quận A,
TP ..
3.5. Bà Lâm Thị Hoàng L, sinh năm 2000. Nơi ĐKHKTT: Thôn B, xã P, huyện
B, tỉnh Bình Phước. Nơi  hiện nay: Buôn T, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:
Sáng ngày 09/3/2022 Y T NIÊ sdụng điện thoại di động nhãn hiệu Realme,
màu xanh gắn sim 0879643973 rồi vào ứng dụng mạng hội Z m mục tìm kiếm
quanh đây để tìm gái bán dâm mục đích để chiếm đoạt tài sản của những người
này. Qua tìm kiếm Y T NIÊ làm quen kết bạn với chị Nguyễn Thị V, Y T NIÊ nói sẽ
cho chV số tiền 30.000.000 đồng/1 tháng với điều kiện hai người phải gặp nhau vài
lần 01/tuần (tức làm gái Suger Baby) thì chV đồng ý. Sau đó, hai người hẹn gặp
nhau nhà nghỉ để trao đổi thống nhất về việc chV làm gái (S) cho Y T NIÊ. Khoảng
08 giờ cùng ngày Y T NIÊ điều khiển xe mônhãn hiệu Honda Airblade (chưa xác
định được biển số) đến trung tâm thành phố B tìm nhà nghỉ. Khi đi đến ngã ba D
thuộc phường K, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, Y T NIÊ gọi điện thoại cho anh Hoàng
H1 (là chủ nhà nghỉ Hoàng Thiên A) đđặt phòng và xin địa chđể gửi cho chị V.
Sau đó, anh H1 nhắn tin địa chỉ nhà nghỉ Q cho Y T NIÊ rồi Y T chuyển tiếp qua Z
cho chị V biết. Khi đến nhà nghỉ H2, địa chC Hồ T, phường T, thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk, Y T được anh H1 cho thuê phòng số 07. Y T NIÊ cầm chìa khoá phòng và
dặn anh H1 T3 nữa bạn gái em tới anh chỉ giúp lên phòng nha” rồi Y T NIÊ đi lên
tầng 02 vào phòng số 07 ci áo khoác bỏ lên giường ngủ, sau đó Y T NIÊ đi ra
ngoài quan sát xem chị V có đi cùng với ai đến không. Khoảng 20 phút sau, chị V đi
xe mô tô nhãn hiệu Honda SH đến và được anh H1 hướng dẫn lên phòng số 07. Khi
đi lên cầu thang thì chị V gặp Y T NIÊ, lúc này Y T NIÊ nói chị V “Vào phòng đi
đứng đây làm gì”. Khi chị V vừa vào phòng thì Y T NIÊ đóng và khoá cửa lại rồi doạ
“Tao hình sự đây”, tiếp đến Y T giả vờ gọi điện thoại nói “Mấy anh em đứng
dưới đó chờ tôi, khi nào lệnh của tôi tmới được lên”, nói xong Y T NIÊ lấy trong
túi quần sau bên trái ra 01 con dao (chị V khai là dao Thái Lan, còn Y T NIÊ lúc khai
dao bấm, lúc khai dao Thái Lan) rồi cha mũi dao về phía cổ bên trái của chị V đe dọa
“Đưa điện thoại đây, mày còn tiền không đưa tao hai mươi triệu”, chị V sợ van xin “
Em không có anh ơi, anh tha cho em”, Y T NIÊ doạ tiếp “ Tao nói mày nè, giờ nhờ
ai chuyển khoản đi không thì mệt đó”. Sau đó, Y T NIÊ nói “Mày lấy toàn bộ giấy tờ
trong túi xách mày ra để tao kiểm tra coi tiền bạc gì hay không”. Sau đó, Y T NIÊ
kiểm tra trong túi xách của chị V thấy có một số giấy tờ tuỳ thân và mấy trăm nghìn
đồng cùng 01 bao cao su nên Y T NIÊ trả lại các tài sản giấy tờ trên cho chị V.
Lúc này, Y T NIÊ dùng điện thoại di động của Y T NIÊ chụp lại toàn bộ hình ảnh
giấy ttuỳ thân của chị V rồi nói “Giờ nhờ ai chuyển tiền đi, chuyển cho tao hai ơi
triệu vào tài khoản, nếu mày không chuyển thì tao gọi điện thoại cho bồ bố mẹ
mày”, bị đe doạ uy hiếp tinh thần nên chV sợ gọi điện thoại qua ứng dụng mạng xã
hội Messenger cho chị Phạm Thị T1 thì chị T1 đồng ý. Khi biết chị V đã mượn được
tiền thì Y T NIÊ gọi điện thoại cho anh họ Đặng Quang H (anh họ của Y T NIÊ)
xin số tài khoản ngân hàng thì anh H đồng ý và cung cấp tài khoản là 333333333332,
ngân hàng V2. Sau đó, chị T1 chuyển số tiền 9.200.000 đồng vào tài khoản của anh
H. Sau khi chiếm đoạt được của chV số tiền 9.200.000 đồng, Y T NIÊ yêu cầu chị
V m tài khoản Smart Banking A1 để kiểm tra thì thấy trong tài khoản số tiền hơn
6.000.000 đồng. Y T yêu cầu chị V chuyển hết số tiền trên nhưng chị V nói đang
chăm con bị đau nằm điều trị  Bệnh viện H3 Cu Ba, nghe vậy Y T NIÊ nói chị V
gọi điện thoại cho bác sỹ điều trị để xác nhận. Chị V gọi điện thoại cho bác sỹ Nguyễn
Hoàng T4 rồi đưa điện thoại cho Y T NIÊ nói chuyện. Sau khi xác nhận đúng con ch
V điều trị bệnh thì Y T yêu cầu chuyển 4.000.000 đồng vào tài khoản ca anh H.
Tại Cơ quan điều tra: Theo lời khai của chị V sau khi bị Y T NIÊ chiếm đoạt số
tiền 13.200.000 đồng thì chị V tiếp tục bị Y T NIÊ đe doạ buộc phải quan hệ, sau khi
quan hệ tình dục xongY T2 tiếp tục sử dụng điện thoại chụp hình chị V đang khoả
thân và doạ “Nếu mày báo Công an hoặc làm gì thì tao sẽ đăng hình ảnh của mày lên
mạng xã hội cho mày hót nhất đêm nay” rồi Y T NIÊ bỏ đi.
Theo lời khai của Y T NIÊ vào các ngày 26/4/2022; 27/4/2022; 28/4/2022;
29/4/2022 và 05/5/2022, Y T NIÊ khai nhận hành vi phạm tội như nội dung chị V đã
trình báo. Đối với con dao sử dụng để đe doạ chị V, sau khi thực hiện hành vi phạm
tội Y T NIÊ đã vứt bỏ ơng nước thuỷ lợi trên đường T thuộc tdân phố A,
phường K, thành phố B. Cơ quan điều tra đã tiến hành tìm kiếm khu vực nơi Y T NIÊ
vứt bỏ dao nhưng không phát hiện tạm giữ con dao nào đặc điểm như trên. Sau đó,
vào các lần làm việc tiếp theo Y T thay đổi lời khai, Y T NIÊ khai sau khi vào phòng
thì Y T NIÊ và chị V tự nguyện quan hệ tình dục với nhau xong, Y T NIÊ doạ chị V
là Cảnh sát hình sự làm cho chị V sợ ri chiếm đoạt số tiền 13.200.000 đồng.
Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, Y T NIÊ trả tiền thuê phòng nghỉ rồi bỏ trốn
đến thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây Y T NIÊ gặp cho em họ Trần Đình V1,
chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Realme, màu xanh của bị cáo sử dụng để phạm
tội, còn số tiền đã chiếm đoạt được của chị V, bị cáo Y T NIÊ tiêu xài hết 10.700.000
đồng, số tiền còn lại 2.500.000 đồng Y T NIÊ trả nợ cho anh họ là Đặng Quang H.
Tại bản án hình ssơ thẩm số: 307/2023/HS-ST ngày 27/9/2023 của Tòa án
nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật
Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Y T NIÊ (Tên gọi khác: B) phạm tộiCướp tài sản”.
Xử phạt: Bị cáo Y T NIÊ (Tên gọi khác: B) 08 (Tám) m 06 (Sáu) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bbắt, tạm giam ngày 21/7/2022.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng,
án phí và quyền kháng cáo của bị cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 03/10/2023, bị cáo Y T Nnộp đơn kháng cáo với nội dung không đồng
ý với tội Cướp tài sản và mức án 08 năm 06 tháng tù.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bcáo Y T NIÊ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội
của mình nhưng không đồng ý với tội cướp tài sản nội dung Bản cáo trạng và Bản
án hình sự sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo. Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư
Công T cho rằng với hành vi bị cáo Y T NIÊ thực hiện, thì bị cáo phạm tội
“Cưỡng đoạt tài sản” chứ không phạm tội “Cướp tài sản”.
Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá
tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử
bị cáo Y T NIÊ về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168 BLHS năm 2015.
Là chưa xem xét toàn diện các chứng cứ, cụ thể: Chưa làm rõ hung khí mà bị cáo Y
T NIÊ kề dao vào cổ bị hại chị V là dao bấm hay dao thái lan. Bị cáo Y T NIÊ đã có
hành vi khóa chặt cửa phòng số 7 dùng thủ đoạn nguy hiểm để dọa bị hại và giả danh
là Cảnh sát hình sự, để chiếm đoạt 13.200.000 đồng ca bị hại chV, có trước hay có
sau khi bị cáo hành vi quan hệ tình dục với chV thì mới chiếm đoạt tài sản. Từ
phân tích nhận định trên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm c khoản 1
Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự hủy bản án hình sthẩm số: 307/2023/HS-ST
ngày 27/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, đã có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo không tranh luận giữ nguyên nội dung kháng cáo chỉ đề nghị Hội
đồng xét xử phúc thẩm xem xét hình phạt một cách hợp lý đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ s nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ ván, đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Ngày 03/10/2023, bị cáo Y T NIÊ nộp đơn kháng cáo bản án
hình sự sơ thẩm số: 307/2023/HS-ST ngày 27/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố
Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Với nội dung không đồng ý với tội “cướp tài sản”
mức án 08 năm 06 tháng tù. Như vậy, kháng cáo của bị cáo trong thời hạn luật
định. Do đó Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Tại phiên tòa vắng mặt bị hại Nguyễn Thị V người bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp ca bị hại Luật sư Võ Đình D, tuy nhiên những người tham gia tố tụng trên
đã được tòa án triệu tập hợp lệ không phải trường hợp phải hoãn phiên tòa được
quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 352 Bộ luật tố tụng hình sự, nên Hội đồng xét x
phúc thẩm vẫn tiếp tục xét xử vụ án.
2. Về tội danh: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Y T NIÊ khai báo quanh co, luôn
thay đổi lời khai không thừa nhận hành vi như bản án thẩm đã nêu nhưng bị cáo
đều thừa nhận hành vi khống chế chị V khiến chị V lâm vào tình trạng không thể
chống cự được đchiếm đoạt tài sản. Mặt khác căn cứ vào các bản tự khai, lời khai
nhận tội của bị cáo thể hiện tại các bút lục trong hồ sơ vụ án từ số (179; 180; 181;
182; 189; 190; 197; 198; 199; 203; 206; 450 454) thì bị cáo Y T NIÊ đã khai nhận
một cách rất tỉ mỉ, chi tiết, từng hành động lời nói, hung khí sử dụng, tài sản chiếm
đoạt mà chỉ bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội mới khai báo được những tình
tiết như vậy. Lời khai nhận tội trên của bị cáo về bản phù hợp với nhau, phù hợp
với lời khai của bị hại và các nhân chứng nanh H1 là chủ nhà nghỉ hay như chị T1
là người chuyển tiền vào tài khoản của anh H theo yêu cầu của bị cáo và còn phù hợp
về thời gian, địa điểm xảy ra vụ án, do đó đủ căn cứ để kết luận: Vào sáng ngày
09/3/2022 tại phòng trọ số 7 nhà nghỉ H2, địa chỉ số C Hồ T, phường T, thành phố B,
tỉnh Đắk Lăk, bị cáo Y T NIÊ đã hành vi khóa chặt cửa phòng số 7 dùng dao
vào cổ, dùng thủ đoạn nguy hiểm để dọa bị hại giả Cảnh sát hình sự, chụp hình
giấy tờ tùy thân của bị hại để uy hiếp tinh thần chị Nguyễn Thị V làm cho chị V lâm
vào tình trạng không thể chống cự được để chiếm đoạt số tiền 13.200.000 đồng.
Hành vi bị cáo Y T NIÊ đã thực hiện Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về
tội “Cướp tài sản” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự, là có căn
cứ, đúng tội, đúng pháp luật. Như vậy quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa, của
luật sư Công T bào chữa cho bị cáo trái với nhận định của Hội đồng xét xử phúc
thẩm nên không được chấp nhận.
[2]. Xét kháng cáo về hình phạt của bị cáo Y T Nthấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã
đánh giá đúng tính chất nguy hiểm thuộc trường hợp rất nghiêm trọng. Bị cáo
phạm tội có tình tiết định khung hình phạt, quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ
luật Hình sự. Đồng thời Tòa án cấp thẩm đã đánh giá, nhận định về tính chất của
hành vi pham tội, hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra và căn cứ vào nhân
thân, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đtừ đó xử phạt
bị cáo Y T NIÊ 08 năm 06 tháng về tội Cướp tài sản căn cứ, thỏa đáng
không nặng. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo không tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệmnh sự mới. Với những nội dung đã được nhận định nêu trên. Hội đồng
xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị o Y T NIÊ. Giữ nguyên bản
án sơ thẩm về tội danh, điều luật và hình phạt đối với bị cáo Y T NIÊ.
[3]. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Về án phí phúc thẩm:
Do giữ nguyên bản án thẩm nên bị cáo Y T NIÊ phải chịu án phí hình sự phúc
thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 ca Bộ luật tố tụng hình sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Y T NIÊ. Giữ nguyên bản án thẩm
số: 307/2023/HS-ST ngày 27/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột,
tỉnh Đắk Lắk.
[2] Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật
hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Y T NIÊ (Tên gọi khác: B) 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù về
tội “Cướp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bcáo bị bắt tạm
giam ngày 21/7/2022.
[3] Án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14,
ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Bị cáo Y T Nphải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của Bản án thẩm không kháng cáo, không bị kháng
cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Đà Nng
- VKSND tỉnh Đắk Lắk (02 bản);
- Phòng HSNV Công an tỉnh Đắk Lắk;
- Văn phòng CQCSĐT Công an tỉnh Đắk
Lắk;
- S Tư pháp tỉnh Đắk Lắk;
- TAND Tp Buôn Ma Thuột;
- Chi cục THADS Tp B;
- VKSND Tp Buôn Ma Thuột;
- Công an Tp Buôn Ma Thuột;
- Bị cáo;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Văn Bằng
Tải về
246_2023_HS-PT_ DAK LAK 246_2023_HS-PT_ DAK LAK

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

246_2023_HS-PT_ DAK LAK 246_2023_HS-PT_ DAK LAK

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất