Bản án số 223/2023/HS-PT ngày 20/12/2023 của TAND tỉnh Thanh Hóa về tội đánh bạc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 223/2023/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 223/2023/HS-PT ngày 20/12/2023 của TAND tỉnh Thanh Hóa về tội đánh bạc
Tội danh: 321.Tội đánh bạc (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Thanh Hóa
Số hiệu: 223/2023/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/12/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Bùi Trí T phạm tội đánh bạc
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH THANH HÓA Độc lp - T do - Hnh phúc
Bn án s: 223/2023/HS-PT
Ngày: 20-12-2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
- Thành phn Hi đồng xét x phúc thm gm có:
Thm phán - Ch ta phiên tòa: Ông Mai Nam Tiến
c Thẩm phán: Bà Lê Thu Hương
Ông Phạm Trường Du
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Tài - Thư Tòa án nhân dân tnh
Thanh Hóa.
- Đại din Vin kim sát nhân dân tnh Thanh Hóa tham gia phiên tòa:
Cù Thị Ngọc - Kim sát viên.
Ngày 20 tháng 12 năm 2023 ti tr s a án nhân dân tnh Thanh Hóa t
x phúc thm ng khai v án hình s phúc thẩm th s 292/2023/TLPT-HS
ngày 02 tháng 11 năm 2023 đối với bcáo Bùi Trí T, do kháng cáo của bị cáo
đối với Bản án hình sự thẩm số 86/2023/HS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2023 của
Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Thanh Hóa.
- Bị cáo có kháng cáo:
Bùi Trí T, sinh ngày 24/4/1988 tại L, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nơi
trú: Thôn 6, L, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ
học vấn: lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt
Nam; con ông Bùi Trí T1 (đã chết) Trương Thị V; có vợ Thị T2 02
con; tiền án: không; tiền sự: không; b tm gi t ngày 27/3/2023 đến ngày
04/4/2023 được áp dng bin pháp ngăn chn Cấm đi khỏi nơi trú; bị cáo tại
ngoại; có mt.
- Các bị cáo không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị (không triệu
tập đến phiên tòa): Bùi Trí P, Nguyễn Hữu B, Mai Tuấn A, Quách Văn Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Chị Triệu Thị T3 sinh năm 2007, trú tại thôn T, T, huyện N là nhân viên
phục vụ tại các quán Karaoke trên địa bàn huyện T anh Minh T4 sinh ngày
21/12/2005, trú tại thôn 6, H, huyện V quan hệ tình cảm nam nữ, người
yêu của nhau. Sáng ngày 08/3/2023, khi chị T3 đang nhà trọ tại khu phố 4, thị
trấn K, huyện T thì anh T4 gọi điện thoại đến rủ chị T3 đi chơi, chị T3 đồng ý
nói anh T4 đến nhà trọ đón chị T3. Sau đó, anh T4 điều khiển xe chở theo
2
bạn của anh T4 chị Đồng Thị Huyền T5, sinh năm 2007, trú tại Đ, huyện Y
ngồi phía sau, cùng đi đến nhà trọ của chị T3 để đón chị T3 đi chơi.
Khoảng 08 giờ 00 phút cùng ngày, anh T4 đi đến trước cổng nhà trọ của chị
T3 thì gặp Bùi Trí P, sinh năm 1996, trú tại thôn 6, L, huyện T và Quách Văn Đ
sinh năm 2002, trú tại thôn 5, xã L (cùng là quản lý, đưa đón chị T3 và các nữ nhân
viên khác phục vụ tại các quán Karaoke trên địa bàn huyện), tại nhà trọ thời điểm
này còn một số nữ nhân viên khác đang tại đây. Khi gặp anh T4, do nghi ngờ
anh T4 đến để dụ dỗ chị T3 đi làm nhân viên quán hát Karaoke ở huyện V nên P đã
bảo anh T4 đi vào trong nhà trọ để nói chuyện, còn T5 đứng ngoài cổng chờ. Sau
khi anh T4 đi vào bên trong cổng ngõ, đứng ở gian bán bình trước nhà, P bảo Đ ra
khóa cửa cổng lại, đồng thời gọi điện thoại cho Nguyễn Hữu B sinh năm 1990, t
tại thôn Y, T nói về việc anh T4 đến ý định lừa chị T3 đi làm nhân viên
quán hát dưới huyện V bảo B đến xem để giải quyết. Lúc này, B đang nhà trọ
của Mai Tuấn A sinh năm 2001 trú tại khu 7 T, thị trấn K cùng với Trịnh Gia B1
sinh ngày 24/7/2007, Đỗ Thành T6 sinh năm 2002, trú tại thôn M, M, huyện N.
Nghe điện thoại xong B nói B1 đi cùng B xuống nhà trọ của P để xem thế nào. Sau
đó, BB1 đi một xe mô tô, Tuấn A T6 đi một xe, cùng đi đến khu nhà trọ của
P. Sau khi được Đ mở cửa cổng, B cùng những người còn lại đi vào bên trong,
nhìn thấy P anh T4 đang nói chuyện tại gian bán bình, B lao vào dùng tay, chân
đánh anh T4, dùng tay túm tóc anh T4 kéo vào bên trong gian phòng khách, còn Đ
đi đóng cửa cổng bên ngoài, kéo đóng cửa xếp bằng kim loại tại gian bán bình
dùng khoá để khoá lại theo yêu cầu của P, mục đích không đcho anh T4 bỏ chạy
ra ngoài. Tại gian phòng khách nhà trọ của P, B tiếp tục dùng tay, chân đánh vào
vùng mặt, đầu của anh T4, dồn anh T4 vào góc tường bên trái của gian phòng
khách; P dùng tay tát vào vùng mặt của anh T4 02 cái; Tuấn A dùng vỏ bao cưa
bằng nhựa đập 01-02 cái vào vùng đầu của anh T4, dùng ghế nhựa ném về phía
anh T4, còn B1 dùng chân đá một số cái vào người anh T4, dùng ghế nhựa ném về
phía người anh T4. Vừa đánh, B P vừa tra hỏi anh T4 về việc dụ dỗ chị T3 đi
làm nhân viên quán hát Karaoke cho anh T4 tại huyện V. Sau đó, B lấy chiếc điện
thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro, vỏ màu gold của anh T4 và dùng chiếc điện
thoại này đánh vào vùng mặt, đầu của anh T4, làm chiếc điện thoại rơi xuống nền
gạch gian phòng khách, bị vỡ màn hình phía trước vphía sau. Quá trình bị B,
P các đối tượng còn lại đánh, anh T4 liên tục lời nói xin lỗi, van xin B, P
các đối tượng để cho anh T4 về nhưng B, P các đối tượng không đồng ý, tiếp
tục giữ, đánh anh T tại gian phòng khách. Đến khoảng hơn 10 giờ 00 phút cùng
ngày, khi Tổ công tác của Công an huyện T đến làm việc, kiểm tra thì anh T4 mới
được các đối tượng cho về, sau đó đến Công an huyện T tố giác hành vi của các
đối tượng.
Sau khi xảy ra sự việc, nhận thức được hành vi của mình vi phạm pháp
luật, Bùi TP, Mai Tuấn A Quách Văn Đ đã đến Công an huyện T đầu thú
3
khai báo về hành vi phạm tội của bản thân. Riêng Nguyễn Hữu B bỏ trốn khỏi địa
phương, đến ngày 10/6/2023, B đến quan CSĐT Công an huyện T đầu thú,
khai báo về hành vi phạm tội của bản thân.
Ngay sau khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, các quan chức năng đã
phối hợp, tiến hành khám nghiệm hiện trường, tạm giữ, niêm phong 01 chiếc ghế
nhựa màu nâu đỏ, kích thước bề mặt ghế 19 x 19cm, 04 chân ghế bằng nhựa,
cao 15,5cm, có 01 chân ghế bị gãy vỡ; 01 điện thoại Iphone 11 Pro đã qua sử dụng,
vỏ màu gold, bị vmàn hình phía trước vỏ phía sau của anh Vũ Minh T4; 01
điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Pro max đã qua sử dụng, vỏ màu xanh nhạt
của Bùi Trí P. Khám xét khẩn cấp tại chỗ của Bùi TP, quan điều tra đã thu
giữ 08 biển kiểm soát xe mô tô và 08 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy.
Tại biên bản xem xét dấu vết trên thân thể của Minh T4 hồi 12 giờ 30
phút ngày 08/3/2023 tại Công an huyện T xác định:
- Một vết thương rách da, chảy máu tại mặt trong môi dưới, kích thước 02 x
1,5cm;
- Một vết thương sưng nề tại vùng đầu bên trái, phía trên tai, kích thước 04 x
02cm;
- Một vết thương xây xước da, chảy máu, sưng nề tại đỉnh đầu bên trái, kích
thước 03 x 03cm;
Tại Bản kết luận giám định pp y về thương ch số 463/2023/TTPY ngày
15/5/2023 ca Trung m pháp y tỉnh Thanh a kết luận: Tại thời điểm giám định
pháp y về thương tích: tổng tỷ lệ phần tm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên
đối với Vũ Minh T4 là: 01%. Sau khi có kết quả gm định pháp y về thương tích, gia
đình c đối ợng y thương ch anh T4 đã thoả thuận, thng nhất với nhau v
vấn đề bồi thường dân sự, anh T4 đã nhận đủ số tiền yêu cầu bồi tờng và có đơn đ
nghị quan điều tra không khởi tố vụ án nh sự đối với nh vi gây thương ch
của c đối ợng đối với anh T4. Do không đủ n cứ để khởi tố đối với Nguyễn
Hữu B, Bùi Trí P Mai Tuấn A về tội Cố ý y thương tích nên quan CSĐT
ng an huyện T đã chuyển hồ sơ đến Công an huyện T xử phạt vi phạm hành chính
theo quy định.
Tại Kết luận định giá số 11/KL-HĐĐGTS ngày 23/3/2023 của Hội đồng định
giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T kết luận, tại thời điểm bị xâm hại, giá tr
thiệt hại của tài sản bị hỏng 4.167.000đ (bốn triệu một trăm sáu ơi bảy
nghìn đồng). quan CSĐT Công an huyện T đã ban hành Quyết định bổ sung
quyết định khởi tố vụ án hình sự và Quyết định bổ sung quyết định khởi tố bị can để
điều tra, xử lý đối với Nguyễn Hữu B về tội Cố ý làm hư hỏng tài sản, theo quy định
tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự. Anh Vũ Minh T4 không yêu cu Nguyễn Hữu
B phải bồi thường phần thiệt hại về tài sản của chiếc điện thoại bị hỏng của anh
T.
4
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định, khôi phục dữ liệu
chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Pro max đã qua sử dụng, vỏ màu
xanh nhạt, gắn số thuê bao 0359.466.666 đã thu giữ của Bùi Trí P, kết quả giám
định cho thấy Bùi Trí P sử dụng chiếc điện thoại di động có gắn số thuê bao trên để
nhận các tin nhắn của người mua số lô, số đề của người chơi, quy ước theo kết quả
kỳ quay xổ số kiến thiết Miền Bắc hàng ngày. Trong đó, “số lô” hai số cuối của
27 giải; “số đề” là hai số cuối của giải đặc biệt; “ba cànglà 03 số cuối của giải đặc
biệt; “xiên đôi”, “xiên ba” là cặp hai số lô hoặc bộ ba số lô. Về cách thức chơi, cách
tính thắng thua, c đối tượng mua số lô, số đề sẽ nhắn tin cho P các số lô, số đề
muốn đặt cược và số tiền, số điểm tương ứng với mỗi số, cặp số đã chọn. Trong đó,
mỗi điểm sẽ được tính tương đương với số tiền 22.500 đồng, nếu trúng người
chơi sẽ nhận được từ P số tiền tương ứng 80.000 đồng mỗi điểm, còn nếu không
trúng thì người chơi sẽ mất số tiền đã mua tương ứng cho P, các số đề trúng sẽ nhận
được 70 lần số tiền đã mua từ P, nếu không trúng sẽ mất số tiền đã mua cho P. Sau
khi nhận mua số lô, số đề từ những người chơi nhắn đến, P không chuyển cho ai
kháctự giữ lại đtính thắng thua với người chơi.
Với cách thức đánh bạc nêu trên, quá trình điều tra xác định, Bùi Trí P đã
03 lần đánh bạc, được thua bằng tiền số tiền thắng thua mỗi lần từ 5.000.000
đồng trở n với Bùi Trí T, sinh năm 1998, cùng trú tại thôn 6,L, huyện T, cụ thể
như sau:
- Lần thứ nhất, vào ngày 02/01/2023, T mua số lô 44, 45 mỗi số 50 điểm,
tương ứng với số tiền 2.250.000 đồng, kết quả T trúng số 45 nhận lại từ P số
tiền 4.000.000 đồng, số tiền đánh bạc của P T lần này là 6.250.000 đồng;
- Lần thứ hai,o ngày 07/01/2023, T mua số lô 75, 76 mỗi số 50 điểm, tương
ứng với số tiền 2.250.000 đồng, kết quả T trúng số 75 nhận lại từ P số tiền
4.000.000 đồng, số tiền đánh bạc của P T lần này là 6.250.000 đồng;
- Lần thứ ba, vào ngày 11/01/2023, T mua số 10, 48 mỗi số 100 điểm, xiên
ba (01-10-88) số tiền 500.000 đồng, số đề 11 số tiền 150.000 đồng, tổng số tiền đã
mua 5.200.000 đồng, kết quả T trúng số 10 hai vòng nhận lại từ P số tiền
16.000.000 đồng, số tiền đánh bạc của PT lầny là 21.200.000 đồng;
Ngoài ra, Bùi Trí P còn 20 lần khác đánh bạc được thua bằng tiền dưới
hình thức nhận tin nhắn mua số lô, số đề của Bùi Trí T, Bùi Trí A1, Phạm Văn Đ1
nhưng số tiền đánh bạc mỗi lần dưới 5.000.000 đồng. c lần mua bán số lô, số đề
giữa Bùi Trí P với Bùi Trí T những người người còn lại đều đã thực hiện xong
việc thanh toán tiền mua, bán, thắng thua.
Kết quả giám định, khôi phục dữ liệu đối với điện thoại di động của Bùi Trí T,
Bùi Trí A1 Phạm Văn Đ1 phù hợp với thông tin về các lần đánh bạc với Bùi Trí
P. Trên cơ sở kết quả điều tra, quan CSĐT Công an huyện T đã ban hành Quyết
định bổ sung quyết định khởi tố vụ án, Quyết định bổ sung quyết định khởi tố bị can
đối với Bùi Trí P, Quyết định khởi tố bị can đối với Bùi Trí T để điều tra, xử về
5
hành vi đánh bạc của Bùi Trí P, Bùi Trí T theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ
luật hình sự. Đồng thời, chuyển hồ đề nghị quan thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi đánh bạc dưới hình thức mua, bán số lô, số đề của
Bùi Trí P, Bùi Trí A1 Phạm Văn Đ1 theo quy định. Đối với hành vi đánh bạc
dưới hình thức ghi số lô, số đề với một số người khác của Phạm Văn Đ1, quan
CSĐT Công an huyện T đã tách hồ sơ để khởi tố, điều tra trong một vụ án kc.
Đối với 08 biển kiểm soát xe 08 giấy chứng nhận đăng xe
tô, xe máy đã thu giữ tại nhà của Bùi Trí P: Tại bản kết luận giám định số
2643/KL-KTHS, ngày 28/4/2023 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an xác
định 08 biển kiểm soát xe mô tô và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô gửi giám
định giả. Quá trình điều tra xác định, bản thân P trước đó làm nghề sửa chữa xe
tô, các biển kiểm soát, giấy chứng nhận đăng xe giả trên do khách hàng
mang đến nhờ P bọc viền, sửa xe để lại, P không làm hoặc sử dụng các biển kiểm
soát hoặc giấy chứng nhận đăng xe trên, các khách hàng trên đều là khách vãng
lai, P không nhớ các biển kiểm soát, giấy chứng nhận đăng ký xe đó của ai. Do
đó, chưa đủ căn cứ đxử Bùi Trí P những người khác về hành vi làm, sử
dụng tài liệu, giấy tờ giả của cơ quan, tổ chức, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã
tách hồ sơ để tiếp tục xác minh, xử lý sang một vụ việc khác theo quy định.
Quá trình điều tra xác định, tại thời điểm bị các đối tượng bắt, giữ trái pháp
luật, anh Vũ Minh T4 mới 17 năm 2 tháng 17 ngày tuổi, nên hành vi của các bị cáo
thuộc trường hợp “phạm tội với người dưới 18 tuổi”, theo quy định tại khoản 2 Điều
157 Bộ luật hình sự. Trong vụ án này, mặc dù Quách Văn Đ không tham gia bắt, giữ
anh Vũ Minh T4 cùng các đối tượng còn lại, tuy nhiên Đ trực tiếp quan sát và nhận
thức rõ việc các đối tượng túm kéo, giữ anh T4 từ bên ngoài vào trong phòng khách,
chửi bới, đánh đập, không cho anh T4 đi về, Đ người đóng cửa để ngăn cản anh
T4 không bỏ chạy ra ngoài, cũng người mở cửa để Nguyễn Hữu B, Mai Tuấn A
Trịnh Gia B1 đi vào bên trong nhà, sau đó thực hiện nh vi bắt, giữ, đánh gây
thương tích cho anh T4. Do đó, Quách Văn Đ đồng phạm giúp sức cùng phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội bắt, giữ người trái pháp luật như các bị cáo khác.
Tại bản án hình sthẩm số 86/2023/HS-ST ngày 27/9/2023 của Tòa án
nhân dân huyện T, tỉnh Thanh Hóa quyết định:
Tuyên bố: Bcáo i Trí P phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” tội
“Đánh bạc”; bcáo Mai Tuấn A và bị cáo Quách Văn Đ phạm tội “Bắt, giữ người
trái pháp luật”; bcáo Nguyễn Hữu B phạm tội “Bắt, gingười trái pháp luật”
tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”; bị cáo Bùi Trí T phạm ti “Đánh bạc”.
Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 157; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự (BLHS), xử phạt bị cáo Bùi Trí P 26
(Hai mươi sáu) tháng về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”. Áp dụng khoản 1
Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38
BLHS, xử phạt bị cáo Bùi TP 08 (Tám) tháng về tội “Đánh bạc”. Áp dụng
6
Điều 55 BLHS, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Bùi Trí P phải chấp hành hình phạt
chung 34 (Ba mươi tư) tháng . Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ
ngày bị tạm giữ ngày 08/3/2023.
Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 157; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17; Điều 58 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn
Hữu B 27 (Hai mươi bảy) tháng về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”. Áp dụng
khoản 1 Điều 178; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38
BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu B 08 (Tám) tháng về tội “Cố ý làm hỏng
tài sản”. Áp dụng Điều 55 BLHS, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Nguyễn Hữu B
phải chấp hành hình phạt chung là 35 (Ba mươi lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành
hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giam ngày 10/6/2023.
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản
1 Điều 52; Điều 38 BLHS, xử phạt bị cáo Bùi Trí T 07 (Bảy) tháng tù về tội “Đánh
bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi thi hành án. Được trừ đi thời
gian đã bị tạm giữ từ ngày 27/3/2023 đến ngày 04/04/2023 vào thời gian chấp hành
án.
Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 157; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 65; Điều 17; Điều 58 BLHS, xử phạt bcáo Mai Tuấn A 25 (Hai mươi lăm)
tháng tù, cho hưởng án treo thời gian thử thách 50 (Năm mươi) tháng, tính từ
ngày tuyên án sơ thẩm.
Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 157; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 65; Điều 17; Điều 58 BLHS, xử phạt bị cáo Quách Văn Đ 24 (Hai mươi bốn)
tháng tù, cho hưởng án treo thời gian thử thách là 48 (Bốn mươi tám) tháng, tính từ
ngày tuyên án sơ thẩm.
Áp dụng khoản 4 Điều 328 Bluật tố tụng hình sự trả tdo ngay tại phiên
tòa cho bị cáo Quách Văn Đ.
Giao bị cáo Quách Văn Đ cho Ủy ban nhân dân L, huyện T, tỉnh Thanh
Hóa giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Giao bị cáo Mai Tuấn A cho Ủy ban nhân dân thị trấn K, huyện T, tỉnh
Thanh Hóa giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về biện pháp thi hành án treo, xử vật
chứng, truy thu tiền nộp ngân sách nhà ớc, án phí, quyền kháng cáo theo quy
định của pháp luật.
Ngày 29/9/2023, bị cáo Bùi Trí T nộp đơn kháng cáo với nội dung xin được
hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Bùi Trí T giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Bị cáo xuất trình cho HĐXX đơn trình bày hoàn cảnh gia đình khó khăn, phiếu thu
tiền về việc bị cáo đã nộp 500.000 đồng ủng hộ quỹ “Vì người nghèo” của L và
biên lai thu tiền thể hiện bcáo đã nộp số tiền 10.200.000 đồng tại Chi cục Thi
7
hành án dân sự huyện T để nộp một phần số tiền truy thu án phí hình sự
thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa phát biểu ý kiến về việc
giải quyết vụ án:
Tại giai đoạn phúc thẩm bị cáo Bùi Trí T xuất trình thêm đơn trình bày hoàn
cảnh gia đình khó khăn, do bố đã chết, bản thân đang trực tiếp nuôi mẹ già, một
phiếu thu tiền về việc bị cáo đã nộp 500.000 đồng ng hộ quỹ “Vì người nghèo”
của L biên lai thu tiền thể hiện bị cáo đã nộp số tiền 10.200.000 đồng tại Chi
cục Thi hành án dân sự huyện T để nộp một phần số tiền truy thu và án phí hình sự
thẩm. Đây tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại khoản 2
Điều 51 BLHS, nên đnghị Hội đồng xét xử (HĐXX) căn cứ vào điểm b khoản 1
Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo
của bị cáo, sửa bản án thẩm, giữ nguyên mức hình phạt cho bị cáo được
hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:
[1] Về ttụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Bùi Trí T làm theo đúng quy định
tại Điều 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS), trong thời hạn luật định nên
được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận:
Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, không việc làm ổn định, bị bạn bè rủ
nên bị cáo đã tham gia đánh bạc nhiều lần dưới hình thức đề, được thua bằng
tiền với Bùi Trí P, trong đó có 03 lần số tiền đánh bạc trên 5.000.000 đồng vào các
ngày 02/01/2023, 07/01/2023 và 11/01/2023 như nội dung bản án thẩm. Tổng
số tiền đánh bạc 03 lần là 34.700.000 đồng.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong giai
đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của bị cáo khác cùng tham gia đánh bạc và các
tài liệu khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án.
Với các hành vi trên, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bbị cáo Bùi Trí P phạm tội
“Bắt, giữ người trái pháp luật” và tội “Đánh bạc” theo quy định tại điểm e khoản 2
Điều 157 khoản 1 Điều 321 BLHS, bị cáo Mai Tuấn A bị cáo Quách Văn Đ
phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 157
BLHS, bị cáo Nguyễn Hữu B phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và tội “Cố ý
làm hỏng tài sản” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 157 khoản 1 Điều
178 BLHS, bị cáo Bùi Trí T phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều
321 BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tòa án cấp thẩm đã xem xét tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
8
hình sự của bị cáo Bùi TT để quyết định mức hình phạt 07(bảy) tháng đối với
bị cáo Thìn là phù hợp với quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T xuất trình thêm đơn trình bày
hoàn cảnh gia đình khó khăn, được chính quyền địa phương xác nhận, một phiếu
thu tiền về việc bị cáo đã nộp 500.000 đồng ủng hộ quỹ “Vì người nghèo” của xã L
biên lai thu tiền thể hiện bị cáo đã nộp stiền 10.200.000 đồng tại Chi cục Thi
hành án dân sự huyện T để nộp một phần số tiền truy thu án phí hình sự
thẩm. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại khoản 2 Điều
51 BLHS.
Xét thấy: Bị cáo tuy một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định
tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS phạm tội 02 lần trở lên, nhưng các lần phạm
tội đều là tội phạm ít nghiêm trọng. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS là thành khẩn
khai báo, đầu thú, tham gia ủng hộ quỹ người nghèo của xã, gia đình bị cáo
hoàn cảnh khó khăn, bố đã chết, bản thân bị cáo đang phải trực tiếp nuôi mẹ già,
bị cáo đã nộp một phần số tiền bị truy thu án phí hình sự thẩm trong vụ án,
nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống hội, cho bị cáo
được cải tạo tại địa phương, dưới s giám sát, giáo dục của gia đình chính
quyền địa phương cũng đủ điều kiện để cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt
cho hội. Do đó, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa
có căn cứ, HĐXX chấp nhận kháng o của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giữ nguyên
mức hình phạt tù và cho bị cáo được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách đối
với bị cáo, thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
HĐXX không xem xét có hiệu lực pháp luật kể tngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
[4] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên bo Bùi Trí T
không phi chu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các l trên,
QUYT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật
tố tụng hình sự; điểm d khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội quy định v mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và s dụng án phí và l phí Tòa án:
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Trí T, sửa bản án hình sự thẩm số
86/2023/HS-ST ngày 27/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Thanh Hóa
như sau:
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản
2 Điều 51; Điều 65 BLHS:
- Tuyên bố: Bị cáo Bùi Trí T phạm ti “Đánh bạc”.
9
- Xphạt: Bị cáo Bùi Trí T 07(bảy) tháng , cho hưởng án treo, thời gian
thử thách là 14(mười bốn) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Bùi Trí T cho Ủy ban nhân dân L, huyện T, tỉnh Thanh Hóa
giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng
án treo thay đổi nơi thoặc nơi làm việc thì thực hiện theo quy định tại khoản
3 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian ththách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ
02 lần trở lên thì Tòa án thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải
chấp hành hình phạt của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện
nh vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản
án trước tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56
BLHS.
- Về số tiền truy thu: Ghi nhận bị cáo Bùi Trí T đã tự nguyện nộp số tiền
phải truy thu 10.000.000đ (Mười triệu đồng) theo biên lai thu tiền số
AA/2022/0001092 ngày 28/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, bị
cáo còn phải nộp số tiền truy thu 14.000.000đ (Mười bốn triệu đồng) để nộp vào
ngân sách nhà nước.
2. Ván p:
- Án phí hình sự pc thẩm: Bị cáo Bùi Trí T không phải nộp án phí hình sự
phúc thẩm.
- Án p nh s thẩm: Bị cáo Bùi Trí T phải nộp 200.000đ (Hai trăm
nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Ghi nhận bị cáo đã nộp số tiền 200.000đ (Hai
trăm nghìn đồng) án phí hình sự thẩm theo biên lai thu tiền số
AA/2022/0001092 ngày 28/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, bị
cáo T đã nộp đủ án phí hình sự sơ thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Thanh Hóa; THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND huyện T;
- TAND huyện T;
- CQ CSĐT Công an huyện T;
- CQ THAHS Công an huyện T;
- Chi cục THADS huyện T
- Bị cáo;
- Tổ HC-TP; Mai Nam Tiến
- Lưu hồ sơ vụ án.
10
Tải về
223_2023_HS-PT_ THANH HOA 223_2023_HS-PT_ THANH HOA

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

223_2023_HS-PT_ THANH HOA 223_2023_HS-PT_ THANH HOA

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất