Bản án số 216/2023/HS-ST ngày 11/09/2023 của TAND Q. Long Biên, TP. Hà Nội về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 216/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 216/2023/HS-ST ngày 11/09/2023 của TAND Q. Long Biên, TP. Hà Nội về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tội danh: 140.Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Q. Long Biên (TAND TP. Hà Nội)
Số hiệu: 216/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 11/09/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: https
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
QUẬN LONG BIÊN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Bản án số: 216/2023/HS-ST
Ngày: 11/9/2023
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, TP.HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà:Trần Thu Hà
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Văn Khanh
Ông Nguyễn Đình Hùng
- Thư ký phiên toà: Phạm Lệ Quyên Thư ký Toà án nhân dân quận
Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, thành phố Nội
tham gia phiên toà: Ông Nguyễn Mạnh Hùng - Kiểm sát viên.
Ngày 11 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên,
Nội t xử thẩm công khai vụ án hình sự thụ số: 177/2023/TLST-HS ngày
06 tháng 7 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét x số
176/2023/QĐXXST-HS ngày 12/7/2023 và quyết định hoãn phiên a số
118/2023/QĐST - HS ngày 24/8/2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: PTH Sinh năm: 1989
HKTT: xã Đ huyện Gia Lâm – TP. Hà Nội
Quốc tịch: Việt Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không
Nghề nghiệp: Lao động tự do Trình độ văn hóa: 12/12
Con ông: PĐC Đã chết
Con bà: NTMT Sinh năm: 1962
Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai
Họ tên chồng: NAĐ SN: 1988. Có 02 con, con lớn SN: 2013, con nhỏ
SN: 2019.
Tiền án, tiền sự: Không
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 10/5/2023, đến nay tại trại tạm giam số 2
Công an thành phố Hà Nội.
(B cáo có mặt tại phiên tòa)
Bị hại: Công ty cổ phần dịch vụ thương mại tổng hợp W
Trụ sở: số 72 L, phường B, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
Đại diện theo ủy quyền: Bà NTTN
2
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
- Anh NAĐ, sinh năm 1988
Trú tại: x, huyện Gia Lâm, TP. Hà Nội.
(Anh Đ có mặt, Chị N vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội
dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 17/10/2020, Công an phường P, Long Biên, Nội nhận được đơn
trình báo của chị NTTN (SN: 1976, Chỗ ở: phường Đ, Long Biên, Hà Nội là quản
lý và đại diện theo ủy quyền của cửa hàng siêu thị V có địa chỉ tại số 08No1B khu
đô thị S thuộc phường P, Long Biên, Nội thuộc Công ty cổ phần dịch vụ
thương mại tổng hợp V) vviệc: ngày 16/10/2020, PTH hành vi chiếm đoạt
tiền của siêu thị V.
Nhận được tin o, quan CSĐT Công an quận Long Biên đã tiến hành
điều tra làm rõ nội dung sự việc như sau:
PTH làm nhân viên bán hàng (có hợp đồng lao động) tại siêu thị V, địa chỉ:
số 8 nhà N01B, tổ 9, phường P, quận Long Biên, Hà Nội thuộc Công ty cổ phần
dịch vụ thương mại tổng hợp V.
Ngày 16/10/2020, H chị NTH (SN: 1988, HKTT: số 282 L, tổ 33,
phường N, TP Yên Bái, tỉnh Yên Bái cùng là nhân viên của siêu thị với H) được
chị NTTT (SN: 1993, nơi trú: thị trấn Y, huyện Gia Lâm, Nội cửa hàng
trưởng của siêu thị) phân ca trực bán hàng ca sáng từ 6h đến 14h30’. Chị H bán
hàng đến 13h thì xin đi về chỉ còn một mình H bán ng tại cửa hàng. Đến
khoảng 14h30’, chị T, chị BTTD (SN: 1997, nơi trú: thôn V, xã C, huyện Gia
Lâm, Hà Nội nhân viên) và anh TTT (SN: 1993, HKTT: tổ 21, phường T, quận
Long Biên, Nội nhân viên) đến bán hàng ca chiều từ 14h30’ đến 22h30’.
Khi hết ca bán hàng của mình (ca sáng) H nói với chị T do về nhà không chìa
khóa để mở cửa nên xin chị T cho lại bán hàng ca chiều, chT đồng ý. Trong
quá trình làm việc từ khoảng 13h đến khoảng 14h cùng ngày H đã tự ý mở ngăn
kéo của cửa hàng, lấy số tiền 22.992.000 đồng. Đến khoảng hơn 15h cùng ngày,
chị D đang ngồi quầy thu ngân, Hoa tự ý mngăn kéo lấy số tiền 3.000.000
đồng, chị Dung hỏi H lấy tiền để làm gì, thì H nói muốn vay 3.000.000 đồng của
cửa hàng, chị D nói ‘‘không phải tiền của em, em không quyền cho chị vay’’.
H nghe xong vẫn cốnh lấy tiền và nói dối chị D ‘‘chị lấy tiền có việc xong quay
lại trả cửa hàng luôn’’, chị D tin H squay lại trả ngay tiền cho siêu thị nên đã
đếm lại tiền của siêu thị rồi đưa lại cho H. Một lúc sau, chị D thấy H quay lại siêu
thị nhưng không trả tiền, chị D báo luôn cho chị T biết, chị T hỏi H thì H nói ‘‘em
đã sử dụng hết số tiền trên, hiện nay chồng em cầm chìa khóa nhà nên bây giờ em
chưa về nhà đlấy tiền trả cho siêu thị được, stiền này em sẽ trả sau’’. Tổng số
tiền H lấy của siêu thị 25.992.000 đồng. Lấy tiền xong, H đi ra ngân hàng chuyển
3
hết tiền vừa lấy vào stài khoản 00*********** thuộc ngân hàng TMCP ngoại
thương Việt Nam của H. Sau đó, H chuyển hết số tiền này sang số tài khoản
10******** thuộc ngân ng TMCP ngoại thương Việt Nam, chủ tài khoản
HTL (SN: 1998, HKTT: xã L, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang) đHTL chạy
quảng cáo trên mạng hội facebook nhưng L lại sử dụng số tiền này để sdụng
vào việc đánh bạc tài xỉu trên mạng Internet cho H được hưởng lợi. ChT, chị
D đợi đến khoảng 19h cùng ngày nhưng vẫn không thấy H về nhà lấy tiền trả siêu
thị. Mọi người nghi ngờ H lấy nhiều hơn số tiền 3.000.000 đồng nên mcamera
lên xem, thấy chỉ có mình H lấy tiền nhiều lần của siêu thị, chủ yếu là ca sáng. Vì
vậy, chị T gọi điện thoại báo cho chị NTTN m quản siêu thị đến. Mọi người
yêu cầu H trả lại hết số tiền đã lấy cho siêu thnhưng H không khắc phục được,
đến khoảng 22h30’ cùng ngày, chị D tổng kết tiền thấy doanh thu của siêu thị
trong ngày bthất thoát 25.992.000 đồng. Ngày 17/10/2020, chị N được ng
ty y quyền đến công an phường P trình báo, đề nghị xác minh làm , xử lý đối
tượng H theo quy định của pháp luật.
Lời khai của PTH phù hợp với nội dung nêu trên phù hợp với lời khai bị
hại, nhân chứng, người liên quan và phù hợp với tài liệu điều tra thu thập được.
Cáo trng s: 173/CT-VKS ngày 05/7/2023 ca Viện trưởng Vin kim sát
nhân dân quận Long Biên đã truy t PTH v ti: Lm dng tín nhim chiếm đoạt
tài sn” theo đim a khon 1 Điu 175 ca B lut Hình s 2015.
Ti phiên tòa:
B cáo đã khai nhn toàn bnh vi phm ti ca mình phù hp vi ni dung
bn cáo trng ca Vin kiểm sát đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tộitranh luận: Căn cứ vào
các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án lời khai của người làm chứng phù
hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra thấy rằng: Hành vi của bị cáo PTH
đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Hành vi ca
b cáo vi phm vào đim a khon 1 Điu 175 ca BLHS 2015.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm b, i, s
khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS 2015;
Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo H mức án từ 08 đến 10 tháng tù.
Về dân sự: Công ty W đã nhận lại 25.992.000 đ đơn xin giảm nhẹ
hình phạt cho bị cáo.
Anh NAĐ chồng bo đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả cho
bị cáo và không yêu cầu bị cáo phải thanh toán tiền cho anh Đ.
Nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng t xử xem xét giảm nhẹ hình
phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, n cứ vào các tài liệu trong hvụ án đã
được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:
4
[1] Về tố tụng:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - ng an
quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát
viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự,
thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qtrình điều tra tại phiên
tòa hôm nay, bcáo đã khai báo thành khẩn không có khiếu nại về hành vi,
quyết định của quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các
hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
đều hợp pháp.
[2] Về tội danh:
Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại quan
điều tra, biên bản tạm giữ đồ vật - tài liệu, lời khai bị hại cùng các tài liệu chứng
cứ khác trong hồ ván cũng như nội dụng bản cáo trạng của Viện kiểm sát
đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 16/10/2020, tại siêu thị V,
địa chỉ: số 8 nhà No1B, tổ 9, phường P, quận Long Biên, Nội PTH có hành vi
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt 25.992.000 đồng của siêu thị V thuộc Công ty cổ
phần dịch vụ thương mại tổng hợp V.
Hành vi của bị cáo PTH đã cấu thành ti: Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của
Bộ luật Hình sự 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố bị
cáo về tội danh điều luật áp dụng căn cứ phù hợp với quy định của
pháp luật.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
- Về tình tiết tăng nặng TNHS:
Bị cáo không có tiền án, tiền sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: bị o đã tác động đến gia đình để khắc
phục hậu quả, bồi thường cho bị hại; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít
nghiêm trọng; ti quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải; bị hại đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cho bị
cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b,
i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.
Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở
hữu tài sản của công dân được Bộ luật hình sự bảo vệ. Sau khi phạm tội bị cáo lại
cố ý lẩn trốn, gây khó khăn cho công tác điều tra nên thấy cần phải xử phạt bị cáo
một mức án trong khung hình phạt nhằm cách ly bcáo ra ngoài hội một
thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.
[4] Về hình phạt bổ sung:
Xét bị cáo không nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không khả năng thi
hành phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo
là có căn cứ.
[5] Về dân sự:
5
Anh NAĐ (SN: 1988, nơi trú: thôn 3, Đ, huyện Gia Lâm, Nội
chồng của H) đã thay mặt H tự nguyện bồi thường cho công ty Công ty cổ phần
dịch vụ thương mại tổng hợp W stiền 25.992.000 đồng. Chị NTTN được Công
ty ủy quyền là người đại diện hợp pháp đã nhận đủ số tiền bồi thường trên, không
có yêu cầu gì thêm và viết đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho H.
Đối với việc PTH chuyển khoản cho HTL số tiền 41.917.600 đồng để L
chạy quảng cáo, do biết L không đủ khả năng trả lại cho H số tiền trên. Vì vậy, H
không đề nghị L phải bồi thường tiền cho H số tiền trên.
Đại diện VKSND quận Long Biên đề nghị về hình phạt chính, hình phạt bổ
sung, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, xử lý vật chứng dân sự có căn cứ
phù hợp với nhận định của HĐXX.
[6] Các vấn đề khác:
Đối với việc PTH chuyển khoản tiền cho HTL, quan CSĐT đã c
minh, ghi lời khai L thể hiện: L H quen biết nhau trên mạng hội facebook,
L đang cần tiền để chạy quảng cáo qua mạng nên đã trao đổi với H việc H chuyển
khoản tiền cho L, mỗi ngày L sẽ trả cho H cả gốc lẫn lãi, H đồng ý. Ngày
5/10/2020, H chuyển cho L số tiền 5.000.000 đồng, Lâm chuyển lại cho Hoa số
tiền 5.300.000 đồng. Ngày 16/10/2020, H chuyển khoản cho L nhiều lần, số tiền
khoảng hơn 40.000.000 đồng. Số tiền này, Lâm sử dụng vào mục đích chơi tài xỉu
trên mạng Internet thua hết. vậy, L không tiền để trả lại cho H. Khi mua tài
xỉu, L chuyển tiền vào game bài (chuyển tiền bằng banking ảo), chủ game bài tên
‘‘Nhà phát hành’’ máy chủ nước ngoài nên L không nhớ số tài khoản như
thế nào. vậy, quan CSĐT công an quận Long Biên ra quyết định tách tài
liệu để tiến hành điều tra làm rõ, xử lý sau là có căn cứ.
[7] Về án phí:
Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
[8] Về quyền kháng cáo:
Bị cáo và người tham gia tố tụng được quyền kháng cáo bản án theo quy
định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 175; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51
Bộ luật hình sự; Điều 136; Điều 331; Điều 333 bộ luật Tố tụng Hình sự;
1. Tuyên bố bị cáo PTH phạm tội: Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản.
- Xử phạt: Bị cáo PTH 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tính từ ngày
10/5/2023.
6
2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội vmức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.
3. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm.
Bị cáo, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan mặt quyền kháng
cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bhại vắng mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày được giao, nhận bản án hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo
quy định của pháp luật.
Nơi nhận T/M. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TANDTP.Hà Nội; Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
- VKSNDTP.Hà Nội;
- Sở Tư pháp TP.Hà Nội;
- VKSND quận Long Biên;
- Công an quận Long Biên;
- Chi cục THA. DS quận Long Biên;
- Cơ quan THA.HS quận Long Biên;
- Người tham gia tố tụng;
- u hồ sơ;
- Lưu VP/TA. Trần Thu Hà
Tải về
Bản án số 216/2023/HS-ST Bản án số 216/2023/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất