Bản án số 213/2023/HS-PT ngày 25-10-2023 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
  • 213_2023_HS-PT_ DAK LAK

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

  • 213_2023_HS-PT_ DAK LAK

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 213/2023/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 213/2023/HS-PT ngày 25-10-2023 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tội danh: 140.Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 213/2023/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/10/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Võ Ngọc H tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 213/2023/HS-PT
Ngày 25 - 10 - 2023
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
A ÁN NHÂN DÂN TNH ĐẮK LK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thm gm có:
Thm phán - Ch ta phiên tòa: Ông Trần Duy Tuấn
Các Thm phán: Ông Văn Công Dần và ông Hoàng Kim Khánh
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Hương Giang - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lk tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Thanh Tâm - Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 10 năm 2023, ti tr s Tòa án nhân dân tnh Đk Lk xét x
phúc thm công khai v án hình s th s: 241/2023/TLPT-HS ngày 02 tháng
10 năm 2023 đối vi b o Võ Ngọc H phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản”, do có kháng o của bị hại ông Bùi Quang T đối vi Bn án hình s sơ
thm s: 13/2023/HS-ST ngày 03 tháng 8 năm 2023 của Toà án nhân dân huyn
Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk.
Bị cáo bị kháng cáo:
Họ tên bị cáo: Ngọc H, sinh năm 1992, tại: Tỉnh Quảng Nam; nơi
trú: Tổ dân phố B, thị trấn K, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; dân tộc: Kinh; giới tính:
Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 9/12; con
ông Võ Ngọc H1 và bà Nguyễn Thị P; bị cáo chưa có vợ, con.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại
ngoại, có mặt tại phiên toà.
- Người bị hại: Ông Bùi Quang T, sinh năm 1960; địa chỉ: Thôn T, B,
huyện L, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Ông Nguyễn Văn L Luật
sư – Công ty L1; địa chỉ: Số B T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
+ Ông Ngô Sỹ T1, sinh năm 1974.
Địa chỉ: Buôn P, P. T, Tp ., tỉnh Đắk Lắk.
+ Ông Nguyễn Hữu Q, sinh năm 1968.
Địa chỉ: số A A, P. T, Tp ., tỉnh Đắk Lắk.
+ Ông Tô Quang H2, sinh năm 1962.
Địa chỉ: số A N, p. T, Tp ., tỉnh Đắk Lắk.
+ Ông Trần Đình Q1, sinh năm 1997.
Địa chỉ: Buôn K, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
(Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt tại phiên toà).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hồ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội
dung vụ án như sau:
Vào năm 2019, ông Bùi Quang T giao chiếc xe ô biển kiểm soát 47C-
090.21 toàn bộ giấy tờ xe mang tên Bùi Quang T cho ông Nguyễn Hữu Q để
làm công trình. Sau đó ông Q đã giao xe cho anh Ngô Sỹ T1 trực tiếp quản lý, sử
dụng chiếc xe trên để làm công trình đường tông cho ông Q tại C, huyện K.
Quá trình làm công trình tại C, ông Q lấy vật liệu (cát + đá) của Ngọc H
để làm công trình đường bê tông. Đến cuối năm 2019, do ít việc làm nên Q nói với
anh T1 đưa xe lên để chở đất cho H tại xã C, huyện K. Quá trình chở đất cho H do
xe bị hư nên anh T1 gửi xe lại cho H trông coi, sửa chữa và tiếp tục sử dụng xe chở
đất tại C nhưng xe tiếp tục bị hư nên H không sử dụng nữa mà để xe ở nhà. Đến
ngày 15/01/2020, do H không thấy Q trả nợ tiền vật liệu trước đó nên H đã tự ý
bán chiếc xe trên cho Trần Đình Q1, ttại Buôn K, C, huyện K với số tiền
50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng), hai bên làm giấy tạm bán xe thống
nhất trong 45 ngày nếu H không lấy xe thì sẽ chính thức bán xe cho Q1 với số tiền
nói trên.
Sau khi nghỉ tết nguyên đán năm 2020 xong thì ông Q nói với anh T1 đi gặp
H lấy xe về sửa để đi làm, khi anh T1 xuống gặp H để lấy xe thì H không cho lấy
và nói với anh T1 là muốn lấy xe thì nói ông Q xuống lấy, anh T1 kể lại cho ông Q
nghe. Sau đó, ông Q xuống đi tìm xe nhưng không thấy nên nói lại sự việc cho ông
T biết. Đến ngày 13/01/2021, ông T ông Q đi tìm xe thì phát hiện chiếc xe ô
của mình ở nhà ông N tại xã C nên làm đơn trình báo sự việc, yêu cầu lấy lại chiếc
xe ô trên (theo lời khai của ông T). Đến tháng 4/2021 ông Q1 bán chiếc xe trên
cho ông Tô Quang H2, trú tại số A N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk với số
tiền 58.000.000 đồng. Sau khi mua xe, ông H2 thấy xe đã bị hỏng không còn
3
hoạt động được nên đã tháo rời các bộ phận xe cắt bán phế liệu, hiện xe đã
không còn, toàn bộ giấy tờ mua bán và giấy tờ xe ông H2 đã làm thất lạc.
Tại Bản kết luận định giá tài sản ngày 21/7/2022 của Hội đồng định giá tài
sản trong Tố tụng hình sự huyện K kết luận: Xe ô tải tđổ, hiệu TRƯỜNG
GIANG, trọng lượng tải 4.950kg, sản xuất năm 2009, biển số 47C-090.21 có giá trị
là 49.500.000 đồng (Bốn mươi chín triệu năm trăm nghìn đồng).
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 13/2023/HS-ST ngày 03 tháng 8 năm 2023
của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk, đã quyết định:
Căn cứ Điều 175 Bộ luật hình sự; Điều 260 và Điều 326 Bộ luật Tố tụng
hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Võ Ngọc H phạm tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản”.
Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 175; điểm b, s khoản 1, khoản 2
Điều 51; khoản 1 Điều 54; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Võ Ngọc H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng
án treo. Thời gian thử thách là 03 (ba) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí
và quyền kháng cáo cho bị cáo và các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 04/8/2023, người bhại ông Bùi Quang T đơn kháng cáo với nội
dung: quan điều tra đã bỏ lọt hành vi phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có” đối với ông Trần Đình Q1 ông Tô Quang H2 không đồng ý
với kết quả định giá của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự huyện K đối với
giá trị của chiếc xe tải mang biển kiểm soát 47C 090.21. Do đó, đề nghị Toà án
nhân dân tỉnh Đắk Lắk huỷ bản án thẩm, trả hồ để điều tra bsung để tránh
bỏ lọt tội phạm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại ông Bùi Quang T giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo.
Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk
Lắk đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cho
rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Ngọc H vtội Lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174 Bộ luật hình sự căn cứ, đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật. Sau khi xét xử thẩm, bị cáo, người bị hại không kháng
cáo về mức hình phạt đối với bị cáo nên không đề cập xem xét.
Xét kháng cáo của người bị hại ông Bùi Quang T cho rằng Cơ quan Điều tra
đã bỏ lọt hành vi phạm tội đối với anh Trần Đình Q1 ông Quang H2, xét
4
thấy trong quá trình điều tra, mặc dù Cơ quan Điều tra đã tiến hành lấy lời khai của
những người có liên quan, tuy nhiên chưa làm rõ được việc giao xe giữa ông T với
ông Nguyễn Hữu Q cũng như chưa làm được việc bị cáo bán xe cho anh Trần
Đình Q1 anh Trần Đình Q1 bán xe cho anh Quang H2. Tại phiên toà phúc
thẩm, những người liên quan đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt,
vậy không thể làm được nội dung kháng cáo của ông T tại phiên toà. Do đó,
đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng đim c khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 1 Điều
358 Bộ luật tố tụng hình sự, hủy bản án hình sự sơ thẩm số 13/2023/HS ST ngày
03/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, để điều tra, truy tố, xét xử lại
theo đúng quy định của pháp luật.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại là Luật sư Nguyễn
Văn L đồng ý với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, đồng
thời đề nghị quan Điều tra xác định lại giá trị của chiếc xe tải biển kiểm soát
47C 090.21 và đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk kiến nghị với quan
điều tra làm trách nhiệm của Điều tra viên trong việc cố tình không đưa các tài
liệu vào hồ sơ vụ án nhằm trốn tránh trách nhiệm.
Người bị hại ông Bùi Quang T đồng ý với ý kiến của Kiểm sát viên và Luật
sư và không có ý kiến tranh luận gì thêm.
Bị cáo không ý kiến tranh luận gì, chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nh
hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung ván, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ
vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với
lời khai của bị cáo tại quan điều tra, tại phiên tòa thẩm; phợp với các tài
liệu, chứng cứ khác đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã đ
sở kết luận:
Do ý thức coi thường pháp luật, mục đích lợi nên Ngọc H đã lợi
dụng sự tin tưởng của ông Ngô Sỹ T1 giao tài sản chiếc xe ô biển kiểm soát
47C 090.21 cho H để quản sử dụng, H đã tự ý bán chiếc xe trên cho ông
Trần Đình Q1 với giá 50.000.000 đồng chiếm đoạt toàn bộ số tiền trên. Do đó,
việc Toà án cấp thẩm xét xử bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản” theo Điều 174 Bộ luật hình sự căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật.
Theo quy định của Điều 1, phần II của Thông tin liên tịch số
02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001
hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV “Các tội phạm xâm phạm sở
5
hữu” của Bộ luật nh sự năm 1999 thì: Giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm
giữ trái phép, bị hủy hoại hoặc bị làm hỏng được xác định theo giá thị trường
của tài sản đó tại địa phương vào thời điểm tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ
trái phép, bị sử dụng trái phép, bị hủy hoại hoặc bị làm hư hỏng”
Tại Bản kết luận định g tài sản ngày 21/7/2022 của Hội đồng định giá
trong Tố tụng hình sự huyện K xác định: Giá trị chiếc ô tải tự đổ, hiệu T, trọng
lượng tả 4.950 kg, sản xuất năm 2009, biển số 47C – 090.21 là 49.500.000 đồng.
Tuy nhiên, Toà án cấp thẩm không căn cứ vào Bản kết luận định giá của
Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự để xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt,
căn cứ dựa trên s tiền bị cáo bán lại chiếc xe cho anh Trần Đình Q1
50.000.000 đồng để áp dụng tình tiết định khung Chiếm đoạt tài sản trị giá từ
50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồngđược quy định tại điểm c, khoản 2
Điều 174 Bộ luật hình sự không đúng. Do đó, cần xác định bị cáo Ngọc H
phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 175 Bộ luật
hình sự.
[2]. Xét kháng cáo của bị hại Bùi Quang T đnghị xem xét hủy bản án
thẩm, trả hồ điều tra lại để truy tố đối với ông Trần Đình Q1 và ông Quang
H2 về tội tiêu thụ i sản cho người khác phạm tội có, Hội đồng xét xử xét
thấy:
Quá trình điều tra, cấp thẩm chưa làm việc ông Bùi Quang T giao xe
cho ông Nguyễn Hữu Q, ông Q giao xe cho ông Ngô Sỹ T1ông T1 giao lại cho
bị o Ngọc H được thực hiện như thế nào? Các bên thoả thuận về việc
giao xe hay không?
Bị cáo ông Trần Đình Q1 cho rằng, trước khi cầm cố chiếc xe cho ông
Q1, bị cáo ông Q1 đã gọi điện hỏi ý kiến của ông Ngô Sỹ T1 được ông T1
đồng ý, tuy nhiên ông T1 không thừa nhận, bị cáo ông Q1 cũng không tài
liệu, chứng cứ để chứng minh. Tuy nhiên, quan điều tra không thu thập các tài
liệu, chứng cứ để thể hiện, việc bị cáo và ông Q1 gọi điện cho ông T1 hay
không thiếu sót. Mặt khác, trong quá trình điều tra, quan Điều tra cũng
không tiến hành đối chất giữa bị cáo với ông Q1 ông Quang H2 để làm
những người này biết về nguồn gốc chiếc xe hay không, trước khi mua lại
chiếc xe của bị cáo, ông Q1 hứa hẹn hay trao đổi trước gì với bị cáo hay không?
[3]. Từ những phân tích và nhận định nêu trên, xét thấy: Trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xcấp thẩm đã không làm lời khai, đối chất của những
người liên quan đến vụ án, việc điều tra, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ để làm căn
cứ kết luận hành vi phạm tội, người phạm tội và các tình tiết khách quan của vụ án.
Tại phiên toà phúc thẩm, những người liên quan mặc đã được triệu tập hợp lệ
nhưng đều vắng mặt nên cấp phúc thẩm không thể làm được. Do đó, cần chấp
6
nhận kháng cáo của bị hại ông Bùi Quang T, hủy bản án hình sự thẩm số
13/2023/HS ST ngày 03/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông. Giao
hồ cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Bông điều tra, truy tố, xét xử lại
theo thủ tục chung.
[4] Về án phí phúc thẩm: Do huỷ bản án thẩm nên người bị hại ông Bùi
Quang T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1]. Căn cứ đim c khon 1 Điều 355, điểm a khoản 1 Điều 358 Bộ luật tố
tụng hình sự.
Chấp nhận kháng cáo của người bị hại ông Bùi Quang T
Hủy bản án hình sthẩm số 13/2023/HS-ST ngày 03 tháng 8 năm 2023
của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông. Giao hồ cho Viện kiểm sát nhân dân
huyện Krông Bông điều tra, truy tố, xét xử lại theo thủ tục chung.
[2]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Người bị hại ông Bùi Quang T không phải
chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND Tối Cao; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND Cấp cao;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk (02 bản);
- Phòng HSNV Công an tỉnh Đắk Lắk;
- Văn phòng CQCSĐT Công an tỉnh Đắk Lắk; (Đã ký)
- Sở Tư pháp tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện Krông Bông; Trần Duy Tuấn
- VKSND huyện Krông Bông;
- Công an huyện Krông Bông;
- Chi cục THADS huyện K;
- Bị hại.
- Lưu hồ sơ.
Tải về
213_2023_HS-PT_ DAK LAK 213_2023_HS-PT_ DAK LAK

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

213_2023_HS-PT_ DAK LAK 213_2023_HS-PT_ DAK LAK

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất