Bản án số 209/2025/DS-PT ngày 14/05/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 209/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 209/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 209/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 209/2025/DS-PT ngày 14/05/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 209/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 14/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ngày 27/8/2011, ông Nguyễn Cảnh H có ký Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số 875/2011/HĐ-GK với Công ty TNHH MTV C1 (Nay là Công ty Cổ phần C1), để nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối... |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 209/2025/DS-PT
Ngày 14 - 5 - 2025
V/v Tranh chấp hợp đồng giao khoán
và yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hằng.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Duy Thuấn.
Bà Đinh Thị Tuyết
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Mai Loan, Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk: Bà Lương Thị Diệu
Anh - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 14 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 160/2025/TLPT-DS ngày
26/02/2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng giao khoán và yêu cầu bồi thường
thiệt hại về tài sản”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 85/2024/DS-ST ngày
30/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 203/2025/QĐ-PT
ngày 14/4/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty Cổ phần C1; địa chỉ: K, Quốc lộ B, xã H, huyện
K, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện pháp luật của nguyên đơn: Ông Đỗ Hoàng P, chức vụ:
Chủ tịch Hội đồng quản trị.
Người đại diện ủy quyền của nguyên đơn: Ông Phạm Đình B; địa chỉ: Số
F T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Văn bản ủy quyền ngày 26/10/2023); Có đơn
xin xét xử vắng mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Cảnh H; địa chỉ: Thôn A, xã H, huyện K, tỉnh
Đắk Lắk; Có mặt.
3. Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Cảnh H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, đại diện ủy quyền của
nguyên đơn Công ty Cổ phần C1 trình bày:
Ngày 27/8/2011, ông Nguyễn Cảnh H có ký Hợp đồng khoán gọn vườn
cây cà phê cho hộ nông trường viên số 875/2011/HĐ-GK với Công ty TNHH
MTV C1 (Nay là Công ty Cổ phần C1), để nhận khoán chăm sóc vườn cây cà
phê Vối trồng năm 1988 của Công ty có diện tích 9.250m
2
và diện tích bờ lô
1.343m
2
, thửa đất số 125, tờ bản đồ số 18, thuộc đội 19-5, xã H, huyện K, tỉnh
Đắk Lắk. Nội dung giao khoán được nêu rõ tại Điều 1 của Hợp đồng: “1. Bên A
khoán gọn vườn cây cà phê cho bên B trực tiếp đầu tư, chăm sóc, bảo vệ, thu
hoạch và giao nộp sản phẩm cà phê”. Nguyên giá trị vườn cây khi nhận khoán là
33.563.816 đồng; Giá trị vườn cây còn lại là 19.757.779 đồng. Phần giá trị vườn
cây trên đất Công ty góp 51%, người nhận khoán góp 49%. Thời gian giao
khoán là 04 năm, sau đó gia hạn đến niên vụ 2019-2020, tính từ ngày ký kết hợp
đồng.
Mức giao khoán hằng năm ông H phải nộp về Công ty theo thoả thuận
trong Hợp đồng giao khoán. Cụ thể: Niên vụ thu hoạch 2011-2012 nộp 2.630kg
quả tươi/niên vụ, tương ứng với 6,25 tạ nhân/ha/năm; niên vụ 2012-2013 đến
niên vụ 2014-2015 nộp 2.315kg quả tươi/niên vụ, tương ứng với 5,50 tạ
nhân/ha/năm; niên vụ 2015-2016 đến niên vụ 2019-2020 nộp 2.210kg quả
tươi/niên vụ, tương ứng với 5,25 tạ nhân/ha/năm.
Kể từ khi nhận khoán vườn cây cho đến niên vụ cà phê 2017-2018 ông H
đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây cũng như thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
giao nộp sản phẩm theo hợp đồng. Từ niên vụ thu hoạch cà phê 2018 - 2019 đến
niên vụ 2022-2023, ông H đã không thực hiện nghĩa vụ giao nộp sản phẩm cà
phê quả tươi cho Công ty và các khoản nợ khác theo đúng cam kết trong Hợp
đồng, mà còn tự ý chặt 63 cây muồng đen trồng năm 1988 do Công ty trồng để
che bóng và chắn gió cho vườn cây và chiếm đoạt toàn bộ khối lượng gỗ. Ngoài
ra, theo thông báo của Cục T về việc truy thu tiền thuê đất năm 2006 đến năm
2010; tiền thuê đất năm 2015 đến năm 2017 và tiền thuê đất 06 năm (2018,
2019, 2020, 2021, 2022, 2023) là 8.313.303 đồng. Ông H còn nợ tiền khấu hao
kênh mương, hồ đập của Công ty từ năm 2018 đến năm 2021.
Mặc dù Công ty đã động viên, thông báo nhiều lần nhưng ông H vẫn cố
tình chống đối, không hợp tác với Công ty là vi phạm hợp đồng đối với Công ty,
xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp và tài sản của công ty.
Hợp đồng của ông H đã hết thời hạn vào ngày 31/12/2019 nhưng ông vẫn
cố tình trồng nhiều cây trồng xen sau khi hợp đồng đã hết thời hạn. Do vậy, đề
nghị Toà án buộc ông H di dời toàn bộ cây trồng xen mà Công ty không cho
phép ông trồng ra khỏi vườn cây trước khi trả đất, vườn cây cho Công ty.
3
Vì những lý do trên, Công ty làm đơn khởi kiện ông Nguyễn Cảnh H, đề
nghị Toà án giải quyết:
1. Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường
viên số 875/2011/HĐ-GK giữa Công ty TNHH một thành viên C1 (Nay là Công
ty Cổ phần C1) với ông Nguyễn Cảnh H. Buộc ông Nguyễn Cảnh H phải trả lại
toàn bộ đất, vườn cây cà phê cho Công ty cổ phần C1 với diện tích 9.250m
2
và
diện tích bờ lô 1.343m
2
, thửa đất số 125, tờ bản đồ số 18, thuộc đội 19/5, xã H,
huyện K, tỉnh Đắk Lắk, theo GCNQSDĐ số K 239519 do UBND tỉnh Đắk Lắk
cấp ngày 16/5/1997 cho Công ty Cổ phần C1. Thửa đất có tứ cận: Phía Bắc giáp
thửa số 72, tờ bản đồ số 18, người nhận khoán ông Trần Minh Đ; Phía Nam giáp
thửa số 128, tờ bản đồ số 18, người nhận khoán ông Phan Văn C; Phía Đông
giáp thửa số 126, tờ bản đồ số 18, người nhận khoán bà Phan Thị S; Phía Tây
giáp thửa số 124, tờ bản đồ số 18, người nhận khoán ông Lê Văn A.
2. Buộc ông Nguyễn Cảnh H phải trả cho Công ty Cổ phần C1 11.996kg
cà phê quả tươi còn nợ của 06 niên vụ (2018-2019; 2019-2020; 2020-2021;
2021-2022; 2022-2023; 2023-2024). Cụ thể như sau: Niên vụ 2018-2019 là
946kg; Niên vụ 2019-2020 là 2.210kg; Niên vụ 2020-2021 là 2.210kg; Niên vụ
2021-2022 là 2.210kg; Niên vụ 2022-2023 là 2.210kg; Niên vụ 2023-2024 là
2.210kg.
3. Buộc ông Nguyễn Cảnh H phải nộp tiền thuê đất về Công ty phần 49%
để Công ty nộp cho Cục thuế tỉnh Đắk Lắk là 8.313.303 đồng. Trong đó: Truy
thu tiền thuê đất từ năm 2006 đến năm 2010 là 540.897 đồng; từ năm 2015-
2017 là 2.218.121 đồng; tiền thuê đất năm 2018 là 927.433 đồng, năm 2019 là
926.244 đồng, năm 2020 là 925.152 đồng, năm 2021 là 925.152 đồng, năm 2022
là 925.152 đồng, năm 2023 là 925.152 đồng.
4. Buộc ông Nguyễn Cảnh H phải bồi thường 100% thiệt hại do hành vi
chặt phá, chiếm đoạt cây muồng đen để che bóng, chắn gió cho vườn cây là 63
cây trồng năm 1988 có giá 291.600.000 đồng.
5. Buộc ông Nguyễn Cảnh H phải trả cho Công ty tiền khấu hao kênh
mương hồ đập tưới cho vườn cà phê từ năm 2018 đến năm 2021 là 1.850.000
đồng.
Tại phiên tòa nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc buộc
ông Nguyễn Cảnh H phải bồi thường 30% giá trị của 63 cây muồng đen trồng
năm 1988 bị cắt hạ. Nguyên đơn chỉ yêu cầu ông Nguyễn Cảnh H phải bồi
thường 70% giá trị của 63 cây muồng đen trồng năm 1988 bị cắt hạ.
Bị đơn ông Nguyễn Cảnh H trình bày:
Hiện nay, việc tranh chấp giữa ông và Công ty Cổ phần C1 đang được
Thanh tra Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk cùng các cơ quan có
4
thẩm quyền giải quyết. Ngày 22/9/2023 UBND tỉnh Đắk Lắk đã có Công văn số
8185/UBND-NNMT về việc đề nghị thanh tra toàn diện tại Công ty Cổ phần
C1. Kết quả giải quyết của Thanh tra Chính phủ và các cơ quan liên quan có thể
ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Vì vậy, kính mong TAND huyện Krông
Pắc tạm dừng giải quyết vụ án thụ lý số 326/2023/TLST-DS ngày 12/12/2023
cho đến khi có kết quả của Thanh tra Chính phủ và các cơ quan liên quan.
Đến hiện nay vẫn chưa có kết luận thanh tra toàn diện Công ty Cổ phần
C1, nên ông đề nghị Tòa án tạm đình chỉ để chờ kết quả thanh tra toàn bộ Công
ty Cổ phần C1 của Thanh tra Chính phủ rõ ràng và được toàn dân đồng thuận thì
mới tiếp tục giải quyết vụ án. Vì kết quả giải quyết của Thanh tra Chính phủ,
Thanh tra tỉnh và các cơ quan chức năng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình
giải quyết vụ án, do đó tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc thì ông có tham gia
đầy đủ nhưng ông không ký vào biên bản và không đồng ý hòa giải với nguyên
đơn, cũng như sẽ không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc đã tiến hành
xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản đối với tài sản có trên diện tích đất
mà ông Nguyễn Cảnh H nhận khoán của Công ty. Tuy nhiên, việc xem xét, thẩm
định tại chỗ và định giá tài sản không thực hiện được do ông Nguyễn Cảnh H
chỉ đồng ý cho Cán bộ Toà án, đại diện của Công ty vào diện tích vườn cây nhận
khoán để xem xét, thẩm định tại chỗ nhưng không ký vào biên bản thẩm định tại
chỗ và cũng không cho Hội đồng định giá tài sản thực hiện nhiệm vụ theo quy
định của pháp luật. Vì vậy, Tòa án đã làm việc và yêu cầu nguyên đơn Công ty
cổ phần C1 cung cấp cho Tòa án về số liệu cây trồng, vật, kiến trúc trên đất mà
ông Nguyễn Cảnh H đã nhận khoán của Công ty. Công ty Cổ phần C1 đã cung
cấp số liệu cây trồng, vật kiến trúc trên đất mà ông Nguyễn Cảnh H nhận khoán
của Công ty theo hợp đồng khoán gọn đã ký. Dựa trên kết quả kiểm đếm số
lượng vườn cây do Công ty Cổ phần C1 cung cấp, Hội đồng định giá tài sản đã
tiến hành định giá theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 85/2024/DS-ST ngày 30/9/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 147, Điều 157, Điều 165, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều
219, Điều 244, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các
điều 388, 390, 392, 412, 414, 501, 502, 503, 506 của Bộ luật Dân sự năm 2005;
điểm c khoản 1 Điều 688 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 7, 8, 9, 10, 12
Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005 của Chính phủ; Thông tư số
102/2006/TT-BNN ngày 13/6/2006 của Bộ N hướng dẫn một số điều của Nghị
5
định số 135/2005 ngày 08/11/2005 của Chính phủ; Luật Đất đai năm 2003; Điều
26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ
phần C1.
1.1. Buộc ông Nguyễn Cảnh H phải trả cho Công ty cổ phần C1 11.996 kg
(Mười một nghìn chín trăm chín mươi sáu kilôgam) cà phê quả tươi còn nợ của
06 niên vụ (Từ niên vụ 2018-2019 đến niên vụ 2023-2024).
1.2. Buộc ông Nguyễn Cảnh H phải nộp tiền thuê đất về Công ty cổ phần
C1 phần 49% để Công ty nộp cho Cục thuế tỉnh Đắk Lắk là 8.313.303 đồng
(Tám triệu ba trăm mười ba nghìn ba trăm lẻ ba đồng).
1.3. Buộc ông Nguyễn Cảnh H phải trả cho Công ty cổ phần C1 tiền khấu
hao kênh mương hồ đập tưới cho vườn cà phê từ năm 2018 đến năm 2021 là
1.850.000 đồng (Một triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng).
1.4. Buộc ông Nguyễn Cảnh H phải bồi thường cho Công ty cổ phần C1
phần 70% giá trị của 63 cây muồng đen trồng năm 1988 bị cắt hạ là 235.758.600
đồng (Hai trăm ba mươi lăm triệu bảy trăm năm mươi tám nghìn sáu trăm
đồng).
1.5. Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường
viên số 875/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 giữa Công ty TNHH MTV C1 (Nay
là Công ty cổ phần C1) với ông Nguyễn Cảnh H.
- Buộc ông Nguyễn Cảnh H phải trả lại cho Công ty cổ phần C1 diện tích
đất đã nhận khoán là 9.250m
2
và diện tích bờ lô 1.343m
2
, tại thửa đất số 125, tờ
bản đồ số 18, thuộc đội 19/5, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Thửa đất có tứ cận:
Phía Bắc giáp thửa số 72, tờ bản đồ số 18, người nhận khoán ông Trần Minh Đ;
Phía Nam giáp thửa số 128, tờ bản đồ số 18, người nhận khoán ông Phan Văn C;
Phía Đông giáp thửa số 126, tờ bản đồ số 18, người nhận khoán bà Phan Thị S;
Phía Tây giáp thửa số 124, tờ bản đồ số 18, người nhận khoán ông Lê Văn A, và
tài sản trên đất gồm: 929 cây cà phê vối trồng năm 1988; 269 Cây tiêu (gồm 110
cây trồng năm 2021, 90 cây trồng năm 2022, 69 cây trồng năm 2023).
- Công ty cổ phần C1 có nghĩa vụ thanh toán giá trị vườn cây cho ông
Nguyễn Cảnh H số tiền 104.003.136 đồng (Một trăm lẻ bốn triệu, không trăm
không ba nghìn, một trăm ba mươi sáu đồng).
- Buộc ông Nguyễn Cảnh H phải tự tháo dỡ, di dời hoặc chặt bỏ các loại
cây trồng và các vật kiến trúc đã trồng và tạo dựng trên đất không đúng theo
thỏa thuận trong hợp đồng đã ký kết, bao gồm: 83 cây sầu riêng (gồm 31 cây
6
trồng năm 2019, 14 cây trồng năm 2021, 07 cây trồng năm 2022, 31 cây trồng
năm 2023); 166 cây cau (gồm 137 cây trồng năm 2019, 22 cây trồng năm 2020,
04 cây trồng năm 2022, 03 cây trồng năm 2023); 128 cây lồng mức trồng năm
2020; 99 cây gòn trồng năm 2020; 01 Căn nhà láng bằng tôn, nền xi măng, diện
tích 9m
2
; 01 Hệ thống ống ngầm phi 60 dài 340m; 01 Hàng rào lưới thép B40,
cao 1,8m, dài 290m. Công ty Cổ phần C1 không có nghĩa vụ phải thanh toán lại
số tiền giá trị các loại cây trồng, vật kiến trúc nêu trên cho ông H.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu
thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho
người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy
định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần C1 về việc
yêu cầu ông Nguyễn Cảnh H phải bồi thường phần 30% trị giá của 63 cây
muồng đen trồng năm 1988 đã bị cắt hạ.
3. Về chi phí tố tụng: Ông Nguyễn Cảnh H có nghĩa vụ trả lại cho Công ty
Cổ phần C1 5.500.000 đồng (Năm triệu năm trăm nghìn đồng) tiền chi phí xem
xét, thẩm định tại chỗ và chi phí định giá tài sản.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Nguyễn Cảnh H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí không có giá
ngạch và 26.702.000 đồng tiền án phí có giá ngạch.
Công ty Cổ phần C1 phải chịu 5.200.000 đồng (Năm triệu hai trăm nghìn
đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch, được khấu trừ vào 11.886.000
đồng (Mười một triệu tám trăm tám mươi sáu nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí
đã nộp theo biên lai thu số AA/2022/0003596 ngày 04/12/2023 tại Chi cục Thi
hành án dân sự huyện K. Công ty cổ phần C1 được nhận lại 6.686.000 đồng
(Sáu triệu sáu trăm tám mươi sáu nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ
thẩm.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo, quyền yêu cầu thi
hành án cho các đương sự theo quy định.
Ngày 05/11/2024, bị đơn ông Nguyễn Cảnh H có đơn kháng cáo toàn bộ
bản án sơ thẩm với nội dung: Đề nghị cấp phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần C1.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện,
bị đơn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu:
7
- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng
các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã tuân thủ đầy đủ và
thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Qua phân tích đánh giá các chứng cứ, tài liệu được thu
thập có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm
sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự:
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Cảnh H; Giữ nguyên bản
án dân sự sơ thẩm số: 85/2024/DS-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân dân
huyện Krông Pắc.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã
được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Cảnh H làm trong hạn luật định và đã
nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên được xem xét, giải quyết theo trình tự
phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét nội dung khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu chấm dứt hiệu lực
pháp luật của Hợp đồng giao khoán, giải quyết hậu quả của hợp đồng giao
khoán, HĐXX xét thấy:
Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số
875/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 ký kết giữa Công ty TNHH MTV C1 với ông
Nguyễn Cảnh H, đối với vườn cây cà phê Vối trồng năm 1988 của Công ty có
diện tích 9.250m
2
và diện tích bờ lô 1.343m
2
, thuộc thửa đất số 125, tờ bản đồ số
18, thuộc đội 19/5, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, thời hạn đến ngày 31/12/2019,
là hợp đồng song vụ có thời hạn, hai bên tự nguyện giao kết hợp đồng, nội dung
hợp đồng không vi phạm quy định pháp luật nên có hiệu lực pháp luật.
Phía ông H đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng đến hết
niên vụ cà phê năm 2017-2018. Tuy nhiên, kể từ niên vụ 2018-2019 cho đến
niên vụ 2023-2024, ông H không đóng sản lượng cà phê quả tươi cho Công ty
và không trả các khoản nợ chi phí khác như cam kết trong hợp đồng, không trả
tiền thuê đất, tiền khấu hao kênh mương hồ đập cho công ty, nhưng vẫn canh
tác, chăm sóc và hưởng lợi thu được từ vườn cây cà phê, đồng thời chiếm giữ
diện tích đất nhận khoán từ đó đến nay. Căn cứ bảng kê chi tiết công nợ từ niên
vụ 2018-2019 đến niên vụ 2023-2024, ông H chưa đóng tổng sản lượng là
11.996 kg cà phê quả tươi cho Công ty là vi phạm quy định tại khoản 3, 4, 5
Điều 1 của Hợp đồng giao khoán nói trên. Do đó, Công ty Cổ phần C1 khởi kiện
8
yêu cầu đơn phương chấm dứt hợp đồng giao khoán và buộc ông H phải trả lại
diện tích đất giao khoán, trả sản lượng cà phê quả tươi, tiền thuê đất và tiền khấu
hao kênh mương, hồ đập mà ông H có nghĩa vụ nộp cho Công ty do ông H đã vi
phạm hợp đồng là có cơ sở, phù hợp với quy định tại Điều 511 Bộ luật Dân sự
năm 2005 và phù hợp với nội dung cam kết tại khoản 2 Điều 3 trong hợp đồng
giao khoán số 875/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 nói trên.
[2.2] Về tiền thuê đất:
Hợp đồng giao khoán số 875/2011/HĐ-GK thực chất là hợp đồng đầu tư
sản xuất và phân chia sản phẩm theo tỷ lệ Công ty 51% và ông H 49%. Tức
Công ty có nghĩa vụ đầu tư và được hưởng quyền lợi tương ứng với 51%, còn
ông H có nghĩa vụ đầu tư và được hưởng quyền lợi tương ứng 49%. Sản lượng
cà phê công ty yêu cầu ông H nộp đã tương ứng với 51% công ty được nhận,
còn 49% sản lượng còn lại ông H được hưởng. Tỷ lệ 51% - 49% này cũng tương
ứng với phần trăm tiền thuê đất phải chịu giữa Công ty với ông H theo quy định
tại điểm g khoản 2 Điều 3 của Hợp đồng. Từ năm 2006 đến 2010, Cơ quan thuế
đã miễn sai tiền thu thuế nên Cục thuế tỉnh Đắk Lắk ban hành Thông báo số
43/CT-THNVDT ngày 08/01/2018 về việc truy thu tiền thuê đất đã miễn sai đối
tượng, theo kết luận Kiểm toán Nhà nước thì từ năm 2006 đến 2010 tiền thuê đất
được tính 1.042.067 đồng/ha. Cục thuế tỉnh Đắk Lắk thông báo truy thu tiền
thuê đất, ông H chưa nộp tiền thuê đất cho Công ty nên Công ty yêu cầu ông H
trả tiền thuê đất tương ứng 49% trên tổng tiền thuê đất Công ty phải nộp cho nhà
nước đối với diện tích đất giao khoán cho ông H là đúng nội dung thỏa thuận
trong hợp đồng. Việc truy thu tiền thuê đất từ năm 2015-2017 và thu tiền thuê
đất từ năm 2018-2023 được nêu cụ thể trong các thông báo nộp tiền thuê đất của
Cục thuế tỉnh Đắk Lắk. Vì vậy, Công ty yêu cầu ông H phải trả tiền thuê đất
tổng cộng 8.313.303 đồng là có căn cứ chấp nhận.
[2.3] Về yêu cầu ông H trả tiền khấu hao kênh mương, hồ đập từ năm
2018 đến năm 2021: Theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 3 của Hợp đồng, thì
ông H phải nộp tiền khấu hao kênh mương, hồ đập cho Công ty theo đơn giá
quy định tại hội nghị người lao động hằng năm. Căn cứ phương án khoán gọn và
diện tích giao khoán thì ông H phải trả mức chi phí khấu hao này từ năm 2018
đến năm 2021 là 1.850.000 đồng.
[2.4] Về yêu cầu bồi thường cho Công ty Cổ phần C1 70% giá trị 63 cây
muồng đen trồng năm 1988 bị ông H cắt hạ:
Tại hợp đồng khoán gọn vườn cây không ghi nhận số cây muồng có trên
đất nhưng tại khoản 1 Điều 6 của Hợp đồng có quy định “Công ty thống nhất
quản lý cây muồng đen hiện có trên lô cà phê nhận khoán, nếu vì lý do quá dày
9
rợp, già cỗi phải cắt tỉa hoặc khi vườn cây thanh lý thì công ty sẽ tổ chức kiểm
kê, lập thủ tục bán theo phương thức đấu thầu ...” và“Đối với cây muồng đen
trồng trên lô cà phê từ năm 1992 trở về trước khi thanh lý chủ hộ được hưởng
30% tổng giá trị, công ty 70% tổng giá trị.”
Như vậy, tại thời điểm ký kết hợp đồng khoán gọn thì trên đất đã có các
cây muồng đen do Công ty trồng. Tại biên bản kiểm kê cây muồng đen trên lô
cà phê của Công ty ngày 01/8/2008 có xác nhận của ông H thì trên đất có 113
cây muồng đen trồng năm 1988. Theo Bảng kiểm kê vườn cây cà phê, cây
muồng và cây tiêu ngày 01/01/2017 thì thời điểm này trên diện tích ông H nhận
khoán có 77 cây muồng đen trồng năm 1988. Khi Hội đồng định giá tài sản tại
cấp sơ thẩm định giá ngày 30/8/2024 thì trên đất không còn cây muồng đen nào.
Theo Biên bản chủ lô tự ý cắt hạ cây muồng đen ngày 21/8/2019 ghi nhận sự
việc ông H đã tự ý cắt hạ tổng cộng 63 cây muồng đen trồng năm 1988, còn 14
cây muồng đen bị mất không rõ lý do. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu
của Công ty để buộc ông H phải bồi thường 70% giá trị 63 cây muồng đen trồng
năm 1988 bị cắt hạ có giá trị 235.758.600 đồng là đúng với thỏa thuận trong hợp
đồng giao khoán.
[2.5] Về các tài sản có trên đất:
Khi chấm dứt hợp đồng, bên nhận giao khoán là ông H phải trả lại đất và
tài sản trên đất đã nhận giao khoán cho Công ty; còn Công ty có trách nhiệm
thanh toán lại cho ông H 49% giá trị tài sản tạo lập trên đất thuộc sở hữu của
ông H là phù hợp quy định tại Điều 6 của Hợp đồng khoán gọn.
Đối với các tài sản có trên lô nhận khoán gồm: 929 cây cà phê vối trồng
năm 1988; 269 Cây tiêu (gồm 110 cây trồng năm 2021, 90 cây trồng năm 2022,
69 cây trồng năm 2023) là các loại tài sản ông H nhận khoán và tạo lập đúng
theo thỏa thuận tại điểm a khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 3 của Hợp đồng giao
khoán số 875/HĐ-GK, nên khi ông H bàn giao lại cho Công ty thì Công ty có
nghĩa vụ thanh toán lại cho ông H 49% giá trị 929 cây cà phê vối và 100% giá
trị 269 cây tiêu là (110.427.950 đồng x 49%) + 49.893.440 đồng = 104.003.136
đồng.
Dù hợp đồng đã hết hạn từ ngày 31/12/2019 nhưng ông H vẫn trồng xen
nhiều loại cây trồng mà không được sự đồng ý từ Công ty. Đối với các tài sản
còn lại gồm: 83 cây sầu riêng (gồm 31 cây trồng năm 2019, 14 cây trồng năm
2021, 07 cây trồng năm 2022, 31 cây trồng năm 2023); 166 cây cau (gồm 137
cây trồng năm 2019, 22 cây trồng năm 2020, 04 cây trồng năm 2022, 03 cây
trồng năm 2023); 128 cây lồng mức trồng năm 2020; 99 cây gòn trồng năm
2020; 01 Căn nhà láng bằng tôn, nền xi măng, diện tích 9m
2
; 01 Hệ thống ống
ngầm phi 60 dài 340m; 01 Hàng rào lưới thép B40, cao 1,8m, dài 290m. Đây là
10
các tài sản ông H tạo lập không đúng thỏa thuận trong hợp đồng và không có sự
đồng ý của Công ty, Công ty không đồng ý nhận lại những tài sản này nên Tòa
án cấp sơ thẩm buộc ông H phải chặt bỏ hoặc tháo dỡ, di dời các tài sản này ra
khỏi diện tích đất giao khoán trước khi bàn giao lại cho Công ty; Công ty không
có nghĩa vụ thanh toán lại cho ông H giá trị số tài sản này.
Từ những phân tích, nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử không có cơ sở
để chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Cảnh H, cần giữ nguyên
bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông
Nguyễn Cảnh H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng
cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Cảnh H.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 85/2024/DS-ST ngày 30/9/2024
của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
[2] Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39, Điều 147, Điều 157, Điều 165, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218,
Điều 219, Điều 227, Điều 244, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015; các điều 388, 390, 392, 412, 414, 501, 502, 503, 506, 507, 508, 510,
511 của Bộ luật Dân sự năm 2005; điểm c khoản 1 Điều 688 của Bộ luật Dân sự
năm 2015; Điều 7, 8, 9, 10, 12 Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005
của Chính phủ; Thông tư số 102/2006/TT-BNN ngày 13/6/2006 của Bộ N
hướng dẫn một số điều của Nghị định số 135/2005 ngày 08/11/2005 của Chính
phủ; Luật Đất đai năm 2003; Điều 26, Điều 27, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
[2.1] Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ
phần C1.
[2.1.1] Buộc ông Nguyễn Cảnh H phải trả cho Công ty cổ phần C1 11.996
kg (Mười một nghìn chín trăm chín mươi sáu kilôgam) cà phê quả tươi còn nợ
của 06 niên vụ (Từ niên vụ 2018-2019 đến niên vụ 2023-2024).
11
[2.1.2] Buộc ông Nguyễn Cảnh H phải nộp tiền thuê đất về Công ty cổ
phần C1 phần 49% để Công ty nộp cho Cục thuế tỉnh Đắk Lắk là 8.313.303
đồng (Tám triệu ba trăm mười ba nghìn ba trăm lẻ ba đồng).
[2.1.3] Buộc ông Nguyễn Cảnh H phải trả cho Công ty cổ phần C1 tiền
khấu hao kênh mương hồ đập tưới cho vườn cà phê từ năm 2018 đến năm 2021
là 1.850.000 đồng (Một triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng).
[2.1.4] Buộc ông Nguyễn Cảnh H phải bồi thường cho Công ty cổ phần
C1 phần 70% giá trị của 63 cây muồng đen trồng năm 1988 bị cắt hạ là
235.758.600 đồng (Hai trăm ba mươi lăm triệu bảy trăm năm mươi tám nghìn
sáu trăm đồng).
[2.1.5] Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông
trường viên số 875/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 giữa Công ty TNHH MTV C1
(Nay là Công ty cổ phần C1) với ông Nguyễn Cảnh H.
- Buộc ông Nguyễn Cảnh H phải trả lại cho Công ty cổ phần C1 diện tích
đất đã nhận khoán là 9.250m
2
và diện tích bờ lô 1.343m
2
, tại thửa đất số 125, tờ
bản đồ số 18, thuộc đội 19/5, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Thửa đất có tứ cận:
Phía Bắc giáp thửa số 72, tờ bản đồ số 18, người nhận khoán ông Trần Minh Đ;
Phía Nam giáp thửa số 128, tờ bản đồ số 18, người nhận khoán ông Phan Văn C;
Phía Đông giáp thửa số 126, tờ bản đồ số 18, người nhận khoán bà Phan Thị S;
Phía Tây giáp thửa số 124, tờ bản đồ số 18, người nhận khoán ông Lê Văn A, và
tài sản trên đất gồm: 929 cây cà phê vối trồng năm 1988; 269 Cây tiêu (gồm 110
cây trồng năm 2021, 90 cây trồng năm 2022, 69 cây trồng năm 2023).
- Công ty cổ phần C1 có nghĩa vụ thanh toán giá trị vườn cây cho ông
Nguyễn Cảnh H số tiền 104.003.136 đồng (Một trăm lẻ bốn triệu, không trăm
không ba nghìn, một trăm ba mươi sáu đồng).
- Buộc ông Nguyễn Cảnh H phải tự tháo dỡ, di dời hoặc chặt bỏ các loại
cây trồng và các vật kiến trúc đã trồng và tạo dựng trên đất không đúng theo
thỏa thuận trong hợp đồng đã ký kết, bao gồm: 83 cây sầu riêng (gồm 31 cây
trồng năm 2019, 14 cây trồng năm 2021, 07 cây trồng năm 2022, 31 cây trồng
năm 2023); 166 cây cau (gồm 137 cây trồng năm 2019, 22 cây trồng năm 2020,
04 cây trồng năm 2022, 03 cây trồng năm 2023); 128 cây lồng mức trồng năm
2020; 99 cây gòn trồng năm 2020; 01 Căn nhà láng bằng tôn, nền xi măng, diện
tích 9m
2
; 01 Hệ thống ống ngầm phi 60 dài 340m; 01 Hàng rào lưới thép B40,
cao 1,8m, dài 290m. Công ty Cổ phần C1 không có nghĩa vụ phải thanh toán lại
số tiền giá trị các loại cây trồng, vật kiến trúc nêu trên cho ông H.
Trong trường hợp ông H không tự nguyện tháo dỡ, di dời, chặt bỏ thì Cơ
quan thi hành án tiến hành áp dụng biện pháp cưỡng chế dùng biện pháp, tháo
12
dỡ, đốn hạ, thu gom hoặc phá bỏ vật kiến trúc và cây trồng trên đất để giao đất
cho nguyên đơn.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu
thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho
người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy
định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[2.2] Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần C1 về
việc yêu cầu ông Nguyễn Cảnh H phải bồi thường phần 30% trị giá của 63 cây
muồng đen trồng năm 1988 đã bị cắt hạ.
[3] Về chi phí tố tụng: Ông Nguyễn Cảnh H có nghĩa vụ trả lại cho Công
ty Cổ phần C1 5.500.000 đồng (Năm triệu năm trăm nghìn đồng) tiền chi phí
xem xét, thẩm định tại chỗ và chi phí định giá tài sản.
[4] Về án phí:
[4.1] Án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Nguyễn Cảnh H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí không có giá
ngạch và 26.702.000 đồng tiền án phí có giá ngạch. Tổng cộng ông Nguyễn
Cảnh H phải chịu 27.002.000 đồng (Hai mươi bảy triệu không trăm lẻ hai nghìn
đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Công ty Cổ phần C1 phải chịu 5.200.000 đồng (Năm triệu hai trăm nghìn
đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch, được khấu trừ vào 11.886.000
đồng (Mười một triệu tám trăm tám mươi sáu nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí
đã nộp theo biên lai thu số AA/2022/0003596 ngày 04/12/2023 tại Chi cục Thi
hành án dân sự huyện K. Công ty cổ phần C1 được nhận lại 6.686.000 đồng
(Sáu triệu sáu trăm tám mươi sáu nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ
thẩm.
[4.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Cảnh H phải chịu 300.000
đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ 300.000
đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2023/0014256 ngày
05/11/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng
cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
13
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7,
Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện Krông Pắc;
- Chi cục THADS huyện K; (Đã ký)
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
Nguyễn Thị Hằng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm