Bản án số 208A/2025/DS-PT ngày 14/05/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 208A/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 208A/2025/DS-PT ngày 14/05/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 208A/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 14/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: 1/9/2017 Ông T ký hợp đồng nhận khoán rẫy cà phê với công ty cà phê Thắn lợi nhưng không nộp sản phẩm hàng năm theo hợp đồng đã ký .nay công ty khởi kiện .
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 208A/2025/DS-PT
Ngày 14-5-2025
V/v: Tranh chấp hợp đồng giao khoán và
yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Đình Triết
Các Thẩm phán: Ông Trần Duy Tuấn và bà Nguyễn Thị My My
- Thư phiên tòa: Lại Thị Minh Hiền, Thư Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Ông
Nguyễn Chí Hiếu - Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc
thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 158/2025/TLPT-DS ngày 26/02/2025 về việc
Tranh chấp hợp đồng giao khoán và yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 83/2024 /DS-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân
dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 202/2025/QĐST-DS ngày 14
tháng 4 năm 2025, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Công ty Cổ phần C; địa chỉ: K, Quốc lộ B, H, huyện K, tỉnh Đắk
Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (Theo Giấy ủy quyền số
46/2023/GUQ ngày 26/10/2023): Ông Phạm Đình B, sinh năm 1957; địa chỉ: F T,
phường T, Tp ., tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
* Bị đơn: Ông Nguyễn Tấn T, sinh năm 1979; địa chỉ: Thôn L, H, huyện K,
tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn (Theo hợp đồng ủy quyền ngày
27/9/2024): Ông Phạm Văn H, sinh năm 1984; địa chỉ: Buôn K, Đ, huyện K, tỉnh
Đắk Nông; có mặt.
* Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Tấn T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
* Người đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn ông Phạm Đình B trình
bày:
Vào ngày 01/9/2017, Ông Nguyễn Tấn T Hợp đồng khoán gọn vườn cây
phê cho hộ nông trường viên số 81/2017/HĐ-GK với công ty TNHH MTV C đnhận
khoán chăm sóc vườn cây phê Vối trồng năm 2013 của Công ty diện tích 9.910
m
2
và diện tích bờ lô 1.439 m
2
, thửa đất số 05, tờ bản đồ số 05, thuộc đội 30/4, Địa chỉ:
H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nội dung giao khoán được nêu rõ: Tại Điều 1 của hợp
đồng đó là: “1. Bên A khoán gọn vườn cây phê cho bên B trực tiếp đầu tư, chăm sóc,
bảo vệ, thu hoạch và giao nộp sản phẩm cà phê”. Nguyên giá vườn cây khi nhận khoán
giá là: 141.379.619 đồng (Một trăm bốn mươi mốt triệu, ba trăm bảy mươi chín
nghìn sáu trăm mười chín đồng); Giá trị vườn cây còn lại: 134.310.638 đồng (Một trăm
ba triệu, ba trăm mười ngàn, u trăm ba mươi tám đồng). Phần giá trị vườn cây trên
đất Công ty góp 51%, người nhận khoán góp 49%. Thời gian giao khoán 15 năm,
tính từ ngày ký kết hợp đồng. Sản lượng giao khoán hằng năm Ông Nguyễn Tấn T phải
nộp về công ty theo Hợp đồng giao khoán cụ thể như sau: Niên vụ thu hoạch 2017-2018
phải nộp 2.029 kg quả tươi/niên vụ; Tương ứng với 4,5 tạ nhân /ha/năm. Niên vụ thu
hoạch 2018-2019 phải nộp 2.480 kg quả tươi/niên vụ;Tương ứng với 5,50 tạ nhân
/ha/năm. Từ niên vụ thu hoạch 2019-2020 đến niên vụ 2028-2029 phải nộp 3.156 kg
quả tươi/niên vụ; Tương ứng với 7,00 tnhân /ha/năm. Từ niên vụ thu hoạch 2029-
2030 đến niên vụ 2031-2032 phải nộp 2.480 kg quả tươi/niên vụ; Tương ứng với 5,50
tạ nhân /ha/năm.
Từ khi nhận vườn cây đến niên vụ cà phê 2017-2018 ông Nguyễn Tấn T đã thực
hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây theo đúng quy định của công ty thực hiện nghĩa
vụ giao nộp sản phẩm đầy đtrong theo Hợp đồng giao khoán vườn cây đã với công
ty.
Tuy nhiên, Từ niên vụ thu hoạch phê 2018 2019 đến niên vụ 2022-2023,
Ông Nguyễn Tấn T đã không thực hiện nghĩa vụ giao nộp sản phẩm phê quả tươi
cho công ty theo đúng cam kết trong Hợp đồng. Ngoài ra theo thông báo của Cục thuế
tỉnh T truy thu tiền thuê đất 2017; Tiền thuê đất 05 năm (2018, 2019, 2020, 2021, 2022)
là: 6.944.192 đồng.
Mặc dù công ty đã động viên, thông báo nhiều lần nhưng ông Nguyễn Tấn T vẫn
cố tình chống đối, không hợp tác với công ty. Việc làm này của ông Nguyễn Tấn T
vi phạm hợp đồng đối với Công ty, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp và
tài sản của công ty.
những do trên, Công ty làm đơn khởi kiện ông Nguyễn Tấn T ra trước
TAND huyện Krông Pắk. Đề nghị Toà án tuyên:
- Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây phê cho hộ nông trường viên số
81/2017/HĐ-GK ngày 01/9/2017 giữa Công ty TNHH một thành viên C (Nay là Công
ty Cổ phần C) với ông Nguyễn Tấn T. Buộc ông Nguyễn Tấn T phải trả lại toàn bộ đất,
vườn cây cà phê cho Công ty cổ phần C với diện tích 9.910 m
2
và diện tích bờ 1.439
m
2
, thửa đất số 05, tờ bản đồ số 05, thuộc đội 30/4, địa chỉ xã H, huyện K,tỉnh Đắk Lắk.
3
Theo GCNQSDĐ số K 239519, do UBND tỉnh Đ cấp cho Công ty Cổ phần Co ngày
16/5/1997. Cụ thể thửa đất có tứ cận: Phía Bắc giáp: Thửa số 05, tờ bản đồ số 03, người
nhận khoán: Bà Đinh Thị X. Phía Nam giáp: Thửa số 15, tờ bản đồ số 05, người nhận
khoán: Ông Nguyễn Xuân L. Phía Đông giáp: Thửa số 06, tờ bản đồ số 05, người nhận
khoán: Ông Thái Xuân T1. Phía Tây giáp: Thửa số 04, tờ bản đsố 05, người nhận
khoán: ông Nguyễn Doãn V.
- Buộc ông Nguyễn Tấn T phải trả cho Công ty cổ phần C: 18.260 kg (Mười tám
nghìn hai trăm sáu mươi kilogam) cà phê quả tươi còn nợ của 06 niên vụ (2018-2019;
2019-2020; 2020-2021; 2021-2022; 2022-2023;2023-2024). Cụ thể như sau: Niên vụ
2018-2019 là: 2480 kg; Từ niên vụ 2019-2020; Niên vụ 2020-2021; Niên vụ 2021-2022;
Niên vụ 2022-2023 và Niên vụ 2023-2024 mỗi niên vụ đều phải trả 3156 kg/niên vụ.
- Buộc ông Nguyễn Tấn T phải nộp tiền thuê đất về công ty phần 49% để công
ty nộp cho cục thuế tỉnh Đ là: 6.944.192 đồng (Sáu triệu, chín trăm bốn mươi bốn nghìn,
một trăm chín mươi hai đồng). Trong đó: Truy thu tiền thuê đất năm2017 là 993.601
đồng. Tiền thuê đất năm 2018 993.606 đồng. Tiền thuê đất năm 2019 992.333đồng.
Tiền thuê đất năm 2020 991.163 đồng. Tiền thuê đất năm 2021 991.163 đồng. Tiền
thuê đất năm 2022 là 991.163 đồng. Tiền thuê đất năm 2023 là 991.163 đồng.
* Bị đơn ông Nguyễn Tấn T trình bày:
Hiện nay, việc tranh chấp giữa tôi và Công ty cổ phần C đang được Thanh tra
chính phủ Ủy ban nhân dân tỉnh Đ cùng các quan thẩm quyền giải quyết. Ngày
22/9/2023 UBND tỉnh Đ đã có Công văn số 8185/UBND-NNMT v/v đề nghị thanh tra
toàn diện tại Công ty cổ phần C. Kết quả giải quyết của Thanh tra chính phủ và các cơ
quan liên quan thể ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. vậy, tôi kính mong TAND
huyện Krông Pắc tạm đình chỉ vụ án cho đến khi có kết quả của thanh tra chính phủ
các cơ quan liên quan. Do đó tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc thì tôi có tham gia đầy đủ
nhưng tôi không vào biên bản không đồng ý hòa giải với nguyên đơn cũng như
sẽ không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn ông Phạm Văn H trình bày:
Công ty cổ phần C chưa đủ tư cách để khởi kiện ông T vì ông T kết hợp đồng
khoán gọn với Công ty TNHH MTV C chứ không phải hợp đồng với Công ty cổ
phần C. Quá trình thực hiện hợp đồng Công ty không thực hiện đúng theo hợp đồng,
không xem xét giảm sản lượng cho người nhận khoán khi có thiên tai xảy ra. Vì những
do nêu trên nên ông T dừng đóng sản để yêu cầu Công ty giảm sản lượng đóng
thương thảo lại các điều khoản trong hợp đồng.
Do đó, Công ty cổ phần C buộc ông T phải trả cho công ty 18.260 kg cà phê quả
tươi còn nợ và Chấm dứt hợp đồng khoán gọn là không hợp lý đề nghị công ty cổ phần
C giảm sản lượng theo quy định trong hợp đồng làm việc với ông T đthỏa thuận
việc phân chia thu nhập sau khi trừ chi phí đầu đúng theo quy định của Nghị định
135/2005 của Chính phủ. Tất cả các thủ tục từ đơn xin nhận khoán, phương án khoán
4
đều do phía công ty S, công ty không thực hiện cơ chế dân chủ, không giải thích về
các điều khoản của hợp đồng đưa đơn hợp đồng in sẵn và yêu cầu ông T ký. Thời
điểm đó do cần phải có vườn cây để có việc làm tạo thu nhập lo cho bản thân, gia đình
tin tưởng vào phía công ty nên ông T đã hợp đồng nêu trên khi chưa hiểu về
phương án khoán và hợp đồng khoán.
Hợp đồng khoán gọn vườn cây phê cho hộ nông trường viên số:
81/2017/HĐKG giữa hộ ông Nguyễn Tấn T với công ty TNHH một thành viên C
ngày 01/09/2017 xuất phát từ việc ng ty C đã khoán trắng cho hộ ông Nguyễn Tấn T
tự cải tạo và đầu trồng cây phê từ năm 2010, sau 03 năm cải tạo đất năm 2013 ông
T đã tự bỏ 100% vốn đầu tư trồng cây cà phê. Đến năm 2016 thì công ty TNHH MTV
C mới góp vốn 51% giá trị vườn cây nên bản chất hợp đồng khoán gọn vườn cây số:
81/2017/HĐ-GK giữa công ty TNHH một thành viên C với hộ ông T, hợp đồng khoán
trắng sau đó công ty mới góp vốn 51% giá trị vườn cây của ông T. Việc ng ty cổ phần
C buộc ông T trả cho công ty A pquả tươi của 06 niên vụ (2018-2024) đề nghị
công ty cổ phần C giảm sản lượng niên vụ 2018-2019 theo quy định trong hợp đồng và
làm việc với ông T để thỏa thuận việc phân chia sản phẩm sau khi trừ chi phí đầu
đúng theo quy định của Nghị định 135/2005 của chính phủ.
Công ty cổ phần C yêu cầu ông T phải nộp tiền thuê đất về công ty số tiền:
6.944.192 đồng (sáu triệu chín trăm bốn mươi bốn ngàn một trăm chín mươi hai đồng)
không nêu căn cứ ràng và không đúng với giá thuê đất trong hợp đồng thuê đất
do công ty Đ1 ký với UBND tỉnh Đ tại hợp đồng thuê đất số 64/HĐTĐ ngày
27/06/2011, phụ lục hợp đồng ngày 17/11/2011 phụ lục hợp đồng số 118/PL-HĐTĐ
ngày 21/6/2017 do vậy ông T chưa để nộp tiền cho đúng với 49% đất đã thuê công
ty cổ phần C không có quyền thu số tiền nêu trên.
Nếu buộc phải chấm dứt hợp đồng khoán gọn vườn cây số: 81/2017/HĐ-GK giữa
ông T công ty TNHH MTV C, ông T sẽ trả lại cho công ty TNHH MTV C phần 51%
giá trị vườn cây vì vườn cây thuộc sở hữu của ông T, ông T tự đầu tư chăm sóc công ty
chỉ là người góp vốn.
Hiện nay, Ban tiếp dân Trung ương đã thông báo về việc đối thoại giải
quyết với chúng tôi theo công văn số: 2420/TB-BTDTW ngày 26/07/2023 Huyện ủy
Krông Pắc đã làm việc với chúng tôi hứa sgiải quyết (biên bản làm việc số: 03-
BB/TCTHU ngày 01/12/2022), các quan thanh tra đang làm việc thanh tra toàn diện
công ty cổ phần C chưa có văn bản trả lời.
Việc tranh chấp giữa ông T Công ty cổ phần C đang được Thanh tra chính phủ
Ủy ban nhân tỉnh Đắk Lắk, cùng các quan thẩm quyền giải quyết. Ngày
22/09/2023 UBND tỉnh Đ đã có công văn số: 8185/UBND-NNMT (V/v đề nghị thanh
tra toàn diện tại công ty cổ phần C). Kết quả giải quyết của thanh tra chính phủ và các
quan liên quan có thể ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên đề nghị Tòa án tạm
đình chỉ vụ án. Từ những phân tích nêu trên tôi đề nghị hội đồng xét xử bác toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của công ty cổ phần C.
5
Tại bản án dân sự thẩm số 83/2024/DSST ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân
dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk quyết định:
- Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Áp dụng Điều 388, 390, 392, khoản 1, 3, 7, 8 Điều 409, 412, 414, 501, 502,
503, 506 của Bộ luật dân sự năm 2005; điểm c khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự
năm 2015;
- Áp dụng Điều 7, 8, 9, 10, 12 Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005
của Chính phủ;
- Áp dụng Thông tư số 102/2006/TT-BNN ngày 13 tháng 11 năm 2006 của Bộ
N;
- Áp dụng Luật đất đai năm 2003;
- Áp dụng Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần C.
1. Buộc ông Nguyễn Tấn T phải trả cho Công ty cổ phần C1 sản lượng phê
quả tươi còn nợ của 06 niên vụ (từ niên vụ 2018-2019 đến niên vụ 2023-2024) 18.260
kg.
2. Buộc ông Nguyễn Tấn T phải nộp tiền thuê đất phần 49% về Công ty (truy
thu tiền thuê đất 2017 tiền thuê đất 06 năm (từ m 2018 đến năm 2023) 6.944.192
đồng (Sáu triệu, chín trăm bốn mươi bốn nghìn, một trăm chín mươi hai đồng)
3. Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây phê cho hộ nông trường viên số
81/2017/HĐ-GK ngày 01/9/2017 giữa Công ty TNHH MTV C và ông Nguyễn Tấn T.
Ông Nguyễn Tấn T có nghĩa vụ trả lại cho Công ty Cổ phần C diện tích đất đã
nhận khoán 9.910 m
2
diện tích bờ 1.439 m
2
, thửa đất số 05, tờ bản đồ số 05,
thuộc đội 30/4, địa chỉ H, huyện K,tỉnh Đắk Lắk. Theo GCNQSDĐ số K 239519, do
UBND tỉnh Đ cấp cho Công ty Cổ phần C vào ngày 16/5/1997. Cụ thể thửa đất tứ
cận: Phía Bắc giáp: Thửa s05, tờ bản đồ số 03, người nhận khoán: Đinh Thị X.
Phía Nam giáp: Thửa số 15, tờ bản đồ số 05, người nhận khoán: Ông Nguyễn Xuân L.
Phía Đông giáp: Thửa số 06, tờ bản đồ số 05, người nhận khoán: Ông Thái Xuân T1.
Phía Tây giáp: Thửa số 04, tờ bản đồ số 05, người nhận khoán: ông Nguyễn Doãn V
tài sản trên đất bao gồm: 1029 Cây cà phê vối trồng năm 2013; 112 cây tiêu trồng năm
2018; 112 cây Muồng đen trồng năm 2013.
- Công ty cổ phần C có nghĩa vụ thanh toán gtrị vườn cây cho ông Nguyễn Tấn
T số tiền 201.810.704 đồng (Hai trăm lmột triệu tám trăm mười nghìn bảy trăm lẻ bốn
đồng).
- Buộc ông Nguyễn Tấn T phải tự tháo dỡ, di dời hoặc chặt bỏ các loại cây trồng
các vật kiến trúc đã trồng tạo dựng trên đất không đúng theo thỏa thuận trong hợp
đồng đã ký kết, bao gồm: 50 cây sầu riêng trồng năm 2019, 01 Căn nhà láng (chòi) lợp
bằng tôn, vách bắn tôn, nền xi măng, diện tích 12 m
2
; Hàng rào lưới B40 xung quanh
lô làm năm 2023 cao 1,5m; 110 trụ bê tông cao 1,5m; 01 giếng nước đào sâu 20m đào
6
năm 1990. Công ty cphần C không có nghĩa vụ phải thanh toán lại số tiền giá trị các
loại cây trồng, vật kiến trúc nêu trên cho ông T.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành
án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành
án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật
dân sự năm 2015.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí, các chi phí ttụng khác, quyền kháng
cáo của các đương sự.
Ngày 11/10/2024 Bị đơn ông Nguyễn Tấn T đơn kháng cáo toàn bộ bản án
thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại vụ án theo hướng bác toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giữ nguyên yêu
cầu khởi kiện; bị đơn đại diện theo ủy quyền của bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo
* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk:
- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã tuân thủ đầy đthực hiện đúng
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Qua phân tích đánh giá các chứng cứ, tài liệu được thu thập
trong hồ vụ án, kết quả tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX
căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị
đơn ông Nguyễn Tấn T; Giữ nguyên bản án thẩm số: 83/2024/DS-ST ngày 30/9/2023
của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ vụ án đã được
thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Về thủ tục tố tụng: Ông Nguyễn Tấn T làm đơn kháng cáo trong thời hạn luật
định và đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, nên vụ án được giải quyết theo trình tự
phúc thẩm.
Về cách tham gia tố tụng của nguyên đơn: Xét thấy, việc chuyển đổi từ
hình Công ty TNHH MTV C sang Công ty Cổ phần C đã được thực hiện theo trình tự
quy định của pháp luật được Phòng đăng kinh doanh - Sở kế hoạch đầu tỉnh Đ cấp
giấy chứng nhận đăng doanh nghiệp Công ty Cổ phần đăng thay đổi lần thứ 5
7
ngày 09/10/2019, hiện nay chưa bị quan thẩm quyền nào hủy bỏ cách pháp
nhân. Mặt khác, căn cứ Điều 87, Điều 92 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: "1. Pháp
nhân thể được chuyển đổi hình thức thành pháp nhân khác. 2. Sau khi chuyển đổi
hình thức, pháp nhân được chuyển đổi chấm dứt tồn tại kể từ thời điểm pháp nhân
chuyển đổi được thành lập; pháp nhân chuyển đổi kế thừa quyền, nghĩa vụ dân sự của
pháp nhân được chuyển đổi”. Tại khoản 4 Điều 202 Luật doanh nghiệp năm 2020 quy
định “Công ty chuyển đổi đương nhiên kế thừa toàn bộ quyền lợi ích hợp pháp, chịu
trách nhiệm về các khoản nợ, gồm cả nợ thuế, hợp đồng lao động và nghĩa vụ khác của
công ty được chuyển đổi". Ngoài ra, tại khoản 3 Điều 10 Nghị định 126/2017/NĐ-CP
của Chính phủ quy định: “3. Công ty cổ phần Đ2 sử dụng toàn bộ tài sản, nguồn vốn đã
nhận bàn giao để tổ chức sản xuất, kinh doanh; kế thừa toàn bộ các quyền lợi ích hợp
pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ, gồm cả nợ thuế, hợp đồng lao động các
nghĩa vụ khác của doanh nghiệp C2". Do đó, Công ty cổ phần C quyền khởi kiện các
hộ nông trường viên để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Công ty. Như vậy, Tòa
án nhân dân huyện Krông Pắc thụ lý, giải quyết vụ án theo yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn Công ty C (sau đây gọi tắt Công ty) xác định ông Đỗ Hoàng P người đại
diện theo pháp luật của Công ty (chức danh Chủ tịch hội đồng quản trị) tham gia tố
tụng, là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung: t kháng cáo của ông Nguyễn Tấn T đối với toàn bộ bản án sơ
thẩm, thì thấy:
[2.1] Về nội dung tuyên buộc ông Nguyễn Tấn T phải trả cho Công ty sản lượng
cà phê quả tươi còn nợ của 06 niên vụ từ 2018-2019 đến 2023-2024 là 18.260 kg:
Nguyên đơn Công ty và bị đơn ông Nguyễn Tấn T đều thừa nhận các bên đã giao
kết Hợp đồng khoán gọn vườn cây phê s81/2017/HĐ-GK ngày 01/9/2017 (Sau đây
gọi tắt là Hợp đồng số 81).
Tại điểm c khoản 2 Điều 3 của Hợp đồng số 81, có nội dung: “Nghĩa vụ của bên
B ng T) thực hiện nộp sản lượng cho bên A theo quy định...”và theo quy định tại khoản
5 Điều 6 của hợp đồng có nội dung: “Trong quá trình thực hiện hợp đồng bên B không
hoàn thành chỉ tiêu giao nộp sản phẩm phê theo định mức hàng năm thì bên A
quyền áp dụng biện pháp cần thiết để thu hồi nợ đơn phương chấm dứt hợp đồng
giao khoán...”. Xét thấy từ niên v2018 - 2019 đến niên vụ 2023 2024 (6 niên vụ),
ông T không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp sản lượng cho Công ty là vi phạm nghĩa vụ
của bên nhận khoán. Do đó, Tòa án cấp thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc
buộc ông T phải trả cho Công ty 18.260 kg cà phê quả tươi còn nợ của 06 niên vụ nêu
trên là có căn cứ.
[2.2] Về nội dung tuyên buộc ông Nguyễn Tấn T phải nộp tiền thuê đất phần 49%
từ năm 2017 đến 2023 là 6.944.192 đồng:
Tại điểm g khoản 2 Điều 3 của Hợp đồng số 81, về phần nghĩa v của bên B
nội dung: Bên B nghĩa vụ nộp tiền thuê đất, thuế đất nông nghiệp cho Nhà nước,
8
theo tỷ lệ 51 49%, phần bên B chịu 49% nộp vào tháng 11 trong năm thông qua bên
A”.
Căn cứ vào Thông báo số 802/TB-CT ngày 24/4/2018 của Cục thuế tỉnh Đ;
Thông báo số 984/TB-CT ngày 07/5/2019 của Cục thuế tỉnh Đ vviệc nộp tiền thuê
đất, thuê mặt nước thì t năm 2016 đến năm 2017 tiền thuê đất được tính
1.786.408đ/ha/năm, từ năm 2018 đến năm 2019 tiền thuê đất được tính
1.786.748đ/ha/năm; Thông báo số 695 ngày 23/3/2020 tiền thuê đất được tính
1.785.408đ/ha; Thông báo số 1252 ngày 29/4/2021 về tiền thuê đất theo hình thức nộp
hàng năm của Cục thuế tỉnh Đ thì năm 2021 tiền thuê đất được tính 1.785.408đ/ha.
Xét từ năm 2017 đến năm 2023, ông T chưa nộp tiền thuê đất cho Công ty để
Công ty thực hiện nghĩa vụ nộp tiền thuê đất vào ngân sách Nhà nước theo quy định
của pháp luật. Do đó, Tòa án cấp thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc buộc
ông T phải nộp tiền thuê đất cho Công ty phần 49% với số tiền 6.944.192 đồng
sở.
[2.3] Về nội dung tuyên chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ
nông trường viên số 81/2017/HĐ-GK ngày 01/9/2017 giữa Công ty TNHH MTV C
ông Nguyễn Tấn T.
Tại điểm f khoản 1 Điều 2 của Hợp đồng quy định về quyền nghĩa vụ của bên
A (Công ty TNHH MTV C) thì bên A quyền: “Hủy bỏ hợp đồng giao khoán, thu hồi
diện tích giao khoán khi bên nhận khoán vi phạm hợp đồng…”. Và tại khoản 5 Điều 6
của Hợp đồng quy định vđiều khoản cam kết chung nêu: “Trong quá trình thực
hiện hợp đồng bên B không hoàn thành chỉ tiêu giao nộp sản phẩm phê theo định
mức hàng m, thì bên A quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi nợ
đơn phương chấm dứt hợp đồng giao khoán, thu hồi vườn cây cà phê giao khoán, tiến
hành giao cho người khác hợp đồng”.
Quá trình thực hiện hợp đồng khoán gọn trồng cây cà phê thì thấy ông T không
đóng sản lượng phê quả tươi cho Công ty; không nộp tiền thuê đất phần 49% cho
Công ty là vi phạm hợp đồng khoán gọn đã kết nên cấp sơ thẩm tuyên chấm dứt Hợp
đồng số 81 giải quyết hậu quả khi chấm dứt hợp đồng giao khoán như Tòa án cấp
thẩm đã giải quyết là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[2.4] Về nội dung tuyên buộc ông Nguyễn Tấn T phải tự tháo dỡ, di dời hoặc chặt
bỏ các loại cây trồng các vật kiến trúc đã trồng và tạo dựng trên đất không đúng theo
thỏa thuận trong hợp đồng đã ký kết:
Như đã phân tích trên, khi chấm dứt hợp đồng giao khoán, thì phải giải quyết
hậu quả như sau:
Đối với các cây trồng khác vật kiến trúc do ông T tạo lập trên diện tích đất
nhận khoán, bao gồm: 50 cây sầu riêng trồng năm 2019, 01 Căn nhà láng (chòi) lợp
bằng tôn, vách bắn tôn, nền xi măng, diện tích 12 m
2
; Hàng rào lưới B40 xung quanh
9
lô làm năm 2023 cao 1,5m; 110 trụ bê tông cao 1,5m; 01 giếng nước đào sâu 20m đào
năm 1990 do ông Tây Đ, tạo dựng không đúng thỏa thuận trong hợp đồng.
Xét thấy, tại điểm b khoản 2 Điều 3 của 90/2017/HĐ-GK ngày 01/9/2017 quy
định: Bên B không được làm thay đổi cơ cấu cây trồng, trong lô cà phê chỉ có cây
phê với cây muồng đen, ngoài bờ được trồng xen cây tiêu trên cây muồng, không
được trồng thêm tiêu leo trên cây muồng đen trong phê”. Như vậy, đối với các
loại cây trồng khác tạo lập vật kiến trúc không đúng thỏa thuận trong hợp đồng đã
Công ty không đồng ý nhận lại nên Công ty không nghĩa vụ thanh toán lại cho
ông T trị giá số tài sản này. Do đó, tòa án cấp thẩm tuyên buộc ông T phải tự tháo
dỡ, di dời hoặc chặt bỏ các loại cây trồng và các vật kiến trúc đã trồng và tạo dựng trên
đất không đúng theo thỏa thuận trong hợp đồng đã ký kết là có cơ sở.
Tuy nhiên, theo Kết luận thanh tra số 13/TB-TTr ngày 06/3/2025 của Thanh tra
tỉnh Đắk Lắk tại mục V.2 của Kết luận thanh tra vphần một số nội dung kiến nghị của
các hộ ký hợp đồng liên kết và khoán gọn thì yêu cầu đối với các hộ dân nhận khoán
nội dung: “Phối hợp cùng Công ty B1 để thống nhất giải quyết các vướng mắc cũng
như các nội dung quy định về quyền nghĩa vụ của các bên còn thiếu hoặc chưa
ràng trong hợp đồng trên tinh thần hợp tác, cùng có lợi, phù hợp với thực tế và tuân thủ
theo quy định của pháp luật”. Như vậy, mặc các hợp đồng khoán gọn vườn cây
phê giữa ông Nguyễn Tấn T với Công ty Cổ phần C đã chấm dứt các hợp đồng khoán
gọn vườn cây nhưng nếu sau này ông T và Công ty T2, giải quyết được các vướng mắc
trên tinh thần hợp tác, cùng lợi, phù hợp với thực tế tuân thủ theo quy định của
pháp luật thì các bên vẫn thể tiếp tục kết lại hợp đồng theo quy định của pháp
luật.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông
Nguyễn Tấn T phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Tấn T
Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm s83/2024/DS-ST ngày 30/9/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
[2] Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 388, 390, 392, các khoản 1, 3, 7, 8 Điều 409, 412, 414, 501, 502,
503, 506 của Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 92, điểm c khoản 1 Điều 688 của Bộ luật
dân sự năm 2015;
10
Áp dụng khoản 4 Điều 202 Luật doanh nghiệp năm 2020; khoản 3 Điều 10 Nghị
định 126/2017/NĐ-CP của Chính phủ; các Điều 7, 8, 9, 10, 12 Nghị định số
135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005 của Chính phủ;
Áp dụng Thông tư số 102/2006/TT-BNN ngày 13 tháng 11 năm 2006 của Bộ N;
Áp dụng Luật đất đai năm 2003;
Áp dụng Ngh quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần C.
[2.1] Buộc ông Nguyễn Tấn T phải trả cho Công ty cổ phần C1 sản lượng cà phê
quả tươi còn nợ của 06 niên vụ (từ niên vụ 2018-2019 đến niên vụ 2023-2024) 18.260
kg.
[2.2] Buộc ông Nguyễn Tấn T phải nộp tiền thuê đất phần 49% về Công ty (truy
thu tiền thuê đất 2017 tiền thuê đất 06 năm (từ m 2018 đến năm 2023) 6.944.192
đồng (Sáu triệu, chín trăm bốn mươi bốn nghìn, một trăm chín mươi hai đồng)
[2.3] Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây phê cho hộ nông trường viên
số 81/2017/HĐ-GK ngày 01/9/2017 giữa Công ty TNHH MTV C và ông Nguyễn Tấn
T.
- Ông Nguyễn Tấn T có nghĩa vụ trả lại cho Công ty Cổ phần C diện tích đất đã
nhận khoán 9.910 m
2
diện tích bờ 1.439 m
2
, thửa đất số 05, tờ bản đồ số 05,
thuộc đội 30/4, địa chỉ H, huyện K,tỉnh Đắk Lắk. Theo GCNQSDĐ số K 239519, do
UBND tỉnh Đ cấp cho Công ty Cổ phần C vào ngày 16/5/1997. Cụ thể thửa đất tứ
cận: Phía Bắc giáp: Thửa s05, tờ bản đồ số 03, người nhận khoán: Đinh Thị X.
Phía Nam giáp: Thửa số 15, tờ bản đồ số 05, người nhận khoán: Ông Nguyễn Xuân L.
Phía Đông giáp: Thửa số 06, tờ bản đồ số 05, người nhận khoán: Ông Thái Xuân T1.
Phía Tây giáp: Thửa số 04, tờ bản đồ số 05, người nhận khoán: ông Nguyễn Doãn V
tài sản trên đất bao gồm: 1029 Cây cà phê vối trồng năm 2013; 112 cây tiêu trồng năm
2018; 112 cây Muồng đen trồng năm 2013.
- Công ty cổ phần C có nghĩa vụ thanh toán gtrị vườn cây cho ông Nguyễn Tấn
T số tiền 201.810.704 đồng (Hai trăm lmột triệu tám trăm mười nghìn bảy trăm lẻ bốn
đồng).
- Buộc ông Nguyễn Tấn T phải tự tháo dỡ, di dời hoặc chặt bỏ các loại cây trồng
các vật kiến trúc đã trồng tạo dựng trên đất không đúng theo thỏa thuận trong hợp
đồng đã ký kết, bao gồm: 50 cây sầu riêng trồng năm 2019, 01 Căn nhà láng (chòi) lợp
bằng tôn, vách bắn tôn, nền xi măng, diện tích 12 m
2
; Hàng rào lưới B40 xung quanh
lô làm năm 2023 cao 1,5m; 110 trụ bê tông cao 1,5m; 01 giếng nước đào sâu 20m đào
năm 1990. Công ty cphần C không có nghĩa vụ phải thanh toán lại số tiền giá trị các
loại cây trồng, vật kiến trúc nêu trên cho ông T.
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành
án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành
án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật
dân sự năm 2015.
11
[2.4] Về án phí:
[2.4.1] Án phí dân sự sơ thẩm:
Bị đơn ông Nguyễn Tấn T phải chịu 24.162.000 đồng (Hai mươi bốn triệu một
trăm sáu mươi hai nghìn đồng) án phí dân sự thẩm (bao gồm 300.000 đồng án phí
dân sự không có giá ngạch và 23.862.000 đồng án phí dân sự có giá ngạch).
Nguyên đơn Công ty cổ phần C phải chịu 10.090.500 đồng (Mười triệu không
trăm chín mười nghìn năm trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch, được khấu
trừ vào số tiền 7.230.000 đồng (Bảy triệu hai trăm ba mươi nghìn đồng) tạmng án phí
đã nộp theo biên lai thu số AA/2022/0003601 ngày 04/12/2023 của Chi cục thi hành án
dân sự huyện Krông Pắc. Sau khi khấu trừ, Công ty cổ phần C còn phải nộp 2.860.500
đồng (Hai triệu tám trăm sáu mươi nghìn năm trăm đồng).
[2.4.2] Án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Nguyễn Tấn T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm, được
khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm ông Nguyễn Tấn T đã nộp
theo biên lai thu số AA/2023/0014270 ngày 08/11/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
[3] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân squyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự,
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân
sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện Krông Pắc;
- Chi cục THADS huyện Krông Pắc;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
Nguyễn Đình Triết
CÁC THẨM PHÁN
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Đình Triết
Tải về
Bản án số 208A/2025/DS-PT Bản án số 208A/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 208A/2025/DS-PT Bản án số 208A/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất