Bản án số 19/2024/HS-ST ngày 26-01-2024 của TAND huyện Chợ Mới (TAND tỉnh Bắc Kạn) về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 19/2024/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 19/2024/HS-ST ngày 26-01-2024 của TAND huyện Chợ Mới (TAND tỉnh Bắc Kạn) về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Tội danh: 260.Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Chợ Mới (TAND tỉnh Bắc Kạn)
Số hiệu: 19/2024/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/01/2024
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: NGUYỄN DUY L tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH BẮC KẠN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Lường Thị Thu Hòa.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Phạm Văn Ngọ và bà Hoàng Thị Thanh Tú.
- Thư ký phiên toà: Vy Thị Hoài Nụ - Thư Tòa án của Tòa án nhân dân
huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn tham gia
phiên tòa: Bà Âu Thị Hồng Nhung - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh
Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 18/2023/TLST-
HS ngày 30 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
19/2024/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:
NGUYỄN DUY L; tên gọi khác: Không có; sinh ngày 14 tháng 5 năm 1984
tại Nội; nơi đăng thường trú nơi hiện nay: Xóm Đ, L, huyện L, tỉnh
Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: kinh; giới
tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Duy D bà:
Đỗ Thị L; vợ và 03 con; tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Nguyễn Duy L bị Công an phường H, thành phố H, tỉnh Hòa Bình
xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cố ý gây thương tích với hình thức phạt tiền
750.000 đồng tại quyết định số 58/QĐ-XPHC ngày 08/6/2015. Tính đến ngày phạm
tội (15/3/2023) được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.
Bị cáo tại ngoại. Có mặt.
- Bị hại:
1. Công ty Cổ phần P;
Địa chỉ: Tổ I, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.
Người đại diện hợp pháp: Anh Lê Huy H, sinh năm 1990;
Trú tại: Tổ C, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. Có mặt.
2. Anh Sằm Văn K, sinh năm 1977; Trú tại: Thôn N, C, huyện C, tỉnh Bắc
Kạn. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
3. Phạm Thị N, Sinh năm: 1945; Trú tại: Thôn N, C, huyện C, tỉnh Bắc
Kạn.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CHỢ MỚI
TỈNH BẮC KẠN
Bản án số: 19/2024/HS-ST
Ngày 26 - 01 - 2024
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
4. Chị Tạ Thị Thanh L2, sinh năm: 1979; Trú tại: Thôn N, xã C, huyện C, tỉnh
Bắc Kạn.
5. Anh Sằm Văn K1, sinh năm 1979, ttại: Thôn N, C, huyện C, tỉnh Bắc
Kạn.
* Người đại diện hợp pháp của bà N, chị L2, anh K1: Anh Sằm Văn K, sinh
năm 1977; Trú tại: Thôn N, C, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt (Có đơn xin
xét xử vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vliên quan:
1. Chị Nguyễn Thị Ngọc H1, sinh năm 1985;
Địa chỉ: Xóm Đ, L, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử
vắng mặt)
2. Công ty Trách nhiệm hữu hạn S;
Địa chỉ: Số A, ngõ B, phố N, phường Đ, quận B, thành phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp: Anh Hoàng Việt H2, sinh năm 1974;
Trú tại: Tổ A, phường S, quận L, thành phố Hà Nội.
Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Người làm chứng:
1. Anh Đỗ Duy O, sinh năm 1985;
Địa chỉ: Xóm C, xã C, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Có mặt
2. Anh Hà Ngọc L3, sinh năm 1978;
Địa chỉ: Thôn T, C, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt (Có đơn xin xét x
vắng mặt).
3. Anh Lê Xuân L4, sinh năm 1973;
Địa chỉ: Tổ G, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. Có mặt.
4. Anh Lê Huy H, sinh năm 1990;
Địa chỉ: Tổ C, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Sau khi trả hàng thiết bị chăn nuôi xong, khoảng 17 giờ ngày 15/3/2023,
Nguyễn Duy L (sinh năm 1984, trú tại m Đ, L, huyện L, tỉnh Hòa Bình) một
mình điều khiển xe ô BKS 29C-892.85 từ huyện N, tỉnh Bắc Kạn về Nội theo
hướng Bắc Kạn - Nội. Hồi 18 giờ 58 phút khi L điều khiển xe đi đến km
133+145 đường quốc lộ 3 thuộc thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Bắc Kạn thì gặp xe ô
đầu kéo BKS 20C-098.81 kéo theo moóc BKS 20R-005.25 do Đỗ Duy O (sinh
năm 1985, trú tại xóm C, C, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên) điều khiển chở quặng
sắt theo hướng ngược chiều nên L đạp phanh nhưng do đường cong cua, trời mưa, L
không làm chủ tốc độ nên lấn sang phần đường của xe ngược chiều dẫn đến va
chạm vào phần lái của xe ô đầu kéo BKS 20C-098.81 gây tai nạn khiến xe đầu
3
kéo BKS 20C-098.81 kéo theo moóc BKS 20R-005.25 lao xuống taluy âm làm
gãy 01 cây xoan, moóc BKS 20R-005.25 đổ một phần quặng sắt xuống ruộng
ngô, 02 phương tiện hỏng. Sau đó, Nguyễn Duy L điều khiển xe ô BKS 29C-
892.85 đi khoảng 500m thì đỗ lại để kiểm tra tình trạng xe nhặt các tấm kim loại
rơi trên đường. Lúc này, L gặp nói chuyện với anh Hà Ngọc L3 (sinh năm 1978,
trú tại thôn T, C), anh L3 dùng đèn pin soi để L dùng dây buộc lại thành thùng
rồi L tiếp tục điều khiển xe đi hướng Hà Nội.
Khi xe ô BKS 20C-098.81 kéo theo moóc BKS 20R-005.25 bị đổ xuống
taluy âm, Đỗ Duy O không tìm được điện thoại nên khoảng 10 phút sau O lên
đường quốc lộ 3 đi nhờ 01 xe ô (O không quen biết) đuổi theo Nguyễn Duy L
theo hướng Bắc Kạn - Nội, khi đi đến cây xăng F thuộc thôn N, xã N, huyện C,
tỉnh Bắc Kạn thì gặp anh Nguyễn Văn N1 (sinh năm 1980, là người làm cùng công
ty O1) điều khiển xe hướng ngược chiều nên O nhờ N1 dùng điện thoại di động gọi
điện báo cho anh Huy H (sinh năm 1990, trú tại tổ C, phường T, thành phố T,
tỉnh Thái Nguyên) về việc xe ô BKS 20C-098.81 bị tai nạn rồi cùng N1 quay lại
hiện trường nhờ người dân báo tin đến Công an xã C, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.
Về phía anh Huy H, do kiểm tra camera hành trình qua điện thoại di động
không thấy tín hiệu nên điều khiển xe ô BKS 20A-283.31 cùng anh Xuân L4
(sinh năm 1973, trú tại tổ G, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên) anh
Khương Đức Q (là Phó giám đốc Công ty B, địa chỉ tại số A, đường cách mạng
tháng tám, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên) đến hiện trường vụ việc. Trên
đường đi, H nhận được thông tin tại hiện trường tấm kim loại ghi biển số xe
BKS 29C-892.85, khi đi qua trạm thu phí đường B - Chợ M thì H nhìn thấy xe ô
tải BKS 29C-892.85 đi hướng ngược chiều, phía sau xe bị hỏng nên đã điều
khiển xe đuổi theo yêu cầu Nguyễn Duy L điều khiển xe quay lại hiện trường để
giải quyết vụ việc.
Sau khi tiếp nhận tin báo của Phòng C Công an tỉnh B, quan Cảnh sát điều
tra Công an huyện C đã phối hợp với quan chức năng tiến hành khám nghiệm
hiện trường, tạm giữ và khám dấu vết trên phương tiện, kết quả như sau:
Hiện trƣờng nơi xảy ra tai nạn giao thông: đoạn đường cong cua về bên
phải theo hướng Hà Nội - Cao Bằng, mặt đường trải nhựa Asphalt, lòng đường rộng
7 m, vạch sơn đứt đoạn màu vàng chia mặt đường thành hai chiều, trời mưa mặt
đường ướt. Hiện trường đã bị xáo trộn một phần do các phương tiện giao thông
khác qua lại.
Hƣớng khám nghiệm, mốc cố định: Hướng khám nghiệm là hướng Nội -
Cao Bằng mốc cố định là cột trình hiệu H2/133 tại lề đường phải theo hướng
khám nghiệm; lấy mép đường phải theo hướng khám nghiệm làm chuẩn.
Dấu vết, phƣơng tiện để lại tại hiện trƣờng:
- Vị trí hiệu số 01: Các mảnh vỡ nhựa, kim loại, thủy tinh nằm rải rác bao
phù toàn bộ mặt đường chiều dài 18m. Đo từ tâm vùng mảnh vỡ đến mép đường
chuẩn là 3,3m, đến mốc cố định là 49,8m.
- Vị trí hiệu số 02: Vết lốp xe in hằn tại lề đường phải hướng khám nghiệm
chiều hướng Nội - Cao Bằng xuống phía taluy âm, vết lốp dài 10m rộng
4
0,7m. Điểm đầu vết lốp trùng với mép đường chuẩn, đo từ điểm đầu đến vị trí 01
4,3m, đến mốc cố định là 52,6m.
- Vị trí ký hiệu số 03: Nắp hậu thùng xe tải bằng kim loại tại rãnh mương thoát
nước bên trái hướng khám nghiệm, nắp kích thước 1,1x1,2m, đo đến mép đường
chuẩn 8,5m, đến vị trí 02 10,8m, xác định đây nắp thùng sau của xe ô
BKS 29C-892.85.
- Vị trí hiệu số 04: Gương chiếu hậu của xe ô đầu kéo BKS 20C-098.81
đã vỡ phần gương tại rãnh mương thoát nước bên trái hướng khám nghiệm, phần
gáo gương kim loại kích thước 0,63x0,25x0,09m, cách mép đường chuẩn là
8,2m, cách vị trí 03 về hướng Hà Nội là 3,4m.
- Vị trí hiệu số 05: Tấm kim loại hình chữ nhật in số 29C-892.85, kích
thước 2,2x0,5m tại rãnh mương thoát nước bên trái hướng khám nghiệm, cách mép
đường chuẩn 8,1m, cách vị trí 04 về hướng Hà Nội là 1,85m.
- Vị trí hiệu số 06: Tm thép thẳng hình chữ nhật kích thước
2,37x0,05x0,08m và thanh thép cong theo gác xe tải kích thước 1,1x0,14x0,04m tại
rãnh mương thoát nước bên trái hướng khám nghiệm, cách mép đường chuẩn
8,27m, cách vị trí số 03 về hướng Cao bằng 2,75m.
- Vị trí hiệu số 07: Xe ô đầu kéo BKS 20C-098.81 kéo theo sơmi
moóc BKS 20R-005.25 đang đỗ, trọng tâm đổ nghiêng về phía bên phải, đầu xe
quay về hướng bắc, đuôi sơmi moóc BKS quay vhướng nam tại ruộng ngô n
dưới taluy âm bên phải hướng khám nghiệm. Thùng xe sơmi rơ moóc chở quặng sắt
bị đổ một phần xuống ruộng ngô. Đo từ trục trước bên lái xe đầu kéo BKS 20C-
098.81 đến mép đường chuẩn 21m, đến mốc cố định 32,2m. Đo ttrục sau
cùng bên lái xe sơmi moóc BKS 20R-005.25 đến mép đường chuẩn 12,8m,
đến mốc cố định là 29,1m.
- Xác định điểm va chạm: Căn cứ vào các dấu vết để lại tại hiện trường xác
định điểm đâm va giữa hai phương tiện tại phần đường phải hướng Nội - Cao
Bằng, cách tâm đường 0,62m, cách vị trí 01 là 5,8m (ký hiệu số 08).
Cách điểm đâm va về hai hướng đều biển cảnh báo nhiều chỗ nguy hiểm
liên tiếp hiệu 202a, 202b. Quá trình khám nghiệm, Nguyễn Duy L không nhất trí
về việc xác định điểm đâm va như trên, theo L vị trí đâm va giữa hai phương tiện tại
vị trí 03.
Ngày 16/3/2023, quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C tiến hành kiểm
tra, xác định tổng diện tích cây ngô bị thiệt hại trong vụ tai nạn giao thông là 200m
2
,
không thể thống cụ thể slượng cây ngô do bị hàng hóa trên xe sơmi moóc
BKS 20R-005.25 đổ vùi lấp gây hư hỏng hoàn toàn; tại vị trí bờ ruộng ngô tiếp giáp
với đường quốc lộ 3 phát hiện 01 cây xoan bị gẫy đổ.
Khám dấu vết phƣơng tiện:
- Xe ô tô đầu kéo BKS 20C-098.81: Kính chắn gió phía trước vỡ hư hỏng hoàn
toàn trên diện 2,20x0,84m; nắp ca bung bật hoàn toàn khỏi xe để lộ chi tiết máy
bên trong; cản trước (ba đờ sốc) móp méo cong gập trên diện 2,6x0,45m chiều
hướng từ trước về sau bám dính nhiều bùn đất; giảm sóc hơi bên phụ phía trước đầu
5
xe gẫy rời; dây điều hòa cabin vỡ hỏng hoàn toàn; bậc lên xuống cabin lái bên phụ
cong gập chiều hướng từ trước về sau, từ ngoài vào trong ép sáp vào gầm cabin bám
dính nhiều bùn đất; cửa cabin bên phụ phần kính chắn gió vỡ hỏng hoàn toàn,
gương chiếu hậu trên cửa bung bật hoàn toàn khỏi xe, mép dưới cửa cong vênh
hướng từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài; cụm đèn tín hiệu hai bên phía trước đầu
xe bung bật hoàn toàn khỏi xe; cần gạt mưa bên phgẫy gập chiều hướng từ trên
xuống dưới; cửa cabin lên xuống bên lái vỡ hỏng vỏ ốp rèm dưới trên diện
0,7x0,45m, gương chiếu hậu gắn trên cửa bung bật khỏi xe; bậc lên xuống cabin
bên lái móp méo, cong gập chiều hướng từ ngoài vào trong áp sát vào thân xe; cabin
lái lệch chiều hướng từ trước về sau, đẩy làm bung bật các bảng điều khiển
trong cabin lái; sườn cabin bên lái phát hiện các vết trượt xước sơn phủ trên diện
01x0,6m, chiều hướng từ trước về sau từ dưới lên trên; mặt lốp phía ngoài thuộc
trục 2 bên lái bị rách thủng mất hơi trên diện 0,5x0,16cm; tại vị trí tiếp xúc giữa
vành và lốp trục 3 bên lái có 01 mảnh cây gỗ trên diện 0,53x0,1m; thanh đỡ rèm hốc
lốp trục 2, 3 bung bật ốc tán; đế sau nhíp 2,3 bên phụ bung bật khỏi xe; bình hơi
thứ 3 bên phụ lệch chiều hướng từ trước về sau, từ dưới lên trên; hộp nhựa bảo
vệ bình ắc quy bên phụ vỡ hỏng trên diện 0,64x0,64x0,28m; cầu chuyển động tại vị
trí chính giữa trục 2 dưới gầm xe vỡ hỏng vỏ kim loại, bung bật khỏi xe, chảy dầu
để lộ chi tiết bên trong; thanh trục nối chuyển động tcầu trục 2 đến cầu trục 3
tụt rời tại vị trí khớp nối; tại cột 01 bên lái thuộc ca bin lái phát hiện 01 vùng vết
móp méo kim loại trên diện 0,47x0,20m, chiều hướng từ trước về sau, từ trái
sang phải, đo từ tâm vùng vết vuông góc với mặt đất là 2,16m.
- Xe sơmi moóc BKS 20R-005.25: Phần đầu 02 khớp nối di động bị gẫy
trên diện 3x3cm; phần sườn bên trái bị cong vênh móp méo tại mép bên dưới trên
diện 4,85x0,2m, téc nước bị móp lõm tại mặt dưới trên diện 1,92x0,24m chiều
hướng từ dưới lên trên từ trước về sau; tại phần sườn phải sơmi moóc rèm ốp bị
cong vênh móp méo trên diện 5x0,17m chiều hướng từ dưới lên trên, téc nước bị
móp méo trên diện 1,8x0,33m chiều hướng từ dưới lên trên; lốp trong trục 3 bên trái
bị vỡ thủng trên diện 0,55x0,04m, mất hơi; đuôi xe bên trái bị mất cụm đèn tín hiệu;
02 ống dẫn nước bị đứt.
- Xe ô BKS 29C-829.85: Gương chiếu hậu bên phụ bị vỡ mặt gương trên
diện 0,6x0,2m; gương chiếu hậu bên lái bị bung bật mất phần gáo gương bằng
nhựa; ốp nhựa bọc đèn xi nhan bên phụ bị vỡ thủng phần nhựa kích thước trên diện
0,12x0,03m; ốp nhựa bọc đèn xi nhan bên lái bị vỡ thủng phần nhựa kích thước trên
diện 0,22x0,2m; ba đờ sốc bị móp méo trên diện 0,9x0,5m chiều hướng từ trước về
sau, hai bên cạnh của ba đờ sốc trước phát hiện nhiều vết trượt xước hoen gỉ bong
sơn đa chiều hướng; các thanh kim loại rào thùng xe tại đuôi xe bên lái bị biến dạng
theo chiều hướng ttrước ra sau, tngoài vào trong, phần đuôi tiếp giáp với mặt
phẳng đuôi xe các thanh sắt bgãy, đứt khỏi vị trí ban đầu, vùng các thanh kim loại
rào thùng xe bbiến dạng, gãy đứt kích thước trên diện 1,4x1,8m, trên các thanh
kim loại rào thùng xe nhiều vết trượt xước kim loại chiều hướng từ trước ra sau;
trên tấm ốp bằng kim loại cuối thành thùng xe bên trái nhiều vết trượt xước kim
loại chiều hướng từ trước ra sau, từ ngoài vào trong, phần đuôi tấm kim loại tiếp
giáp với mặt phẳng đuôi xe bị móp méo biến dạng chiều hướng từ trước ra sau, từ
6
ngoài vào trong; phần thùng kim loại phía bên trái đuôi khung xe bị cong vênh biến
dạng chiều hướng từ ngoài vào trong, từ dưới lên trên lệch so với vị trí ban đầu
0,03m, trên khung kim loại bên trái đuôi xe phát hiện nhiều dấu vết trượt xước kim
loại chiều hướng từ trước ra sau từ trên xuống dưới kích thước trên diện 1,6x0,08m;
thanh kim loại khung xe vị trí khép góc thùng xe bên trái đuôi xe bị gãy đứt khỏi
vị trí ban đầu, khu vực thành thùng đuôi xe bao gồm các thanh kim loại và tấm kim
loại ốp thành thùng bị đứt gãy khỏi vị trí ban đầu kích thước trên diện 1,8x0,55m,
tấm kim loại góc phải đuôi thùng bị móp méo chiều hướng từ sau ra trước, mép tấm
kim loại gập ngược phía sau, thanh kim loại phần đuôi thùng xe còn lại bị đứt gãy;
phần cửa thùng phía đuôi xe bên trái bị đứt gãy khỏi vtrí ban đầu; cụm đèn sau xi
nhan bên trái bị vỡ mất phần nhựa kích thước trên diện 0,24x0,11m.
Giám định kỹ thuật phƣơng tiện:
Tại Bản kết luận giám định số: 115/KL-KTHS ngày 05 tháng 4 năm 2023 của
Phòng K2 Công an tỉnh B kết luận: Xe ô đầu kéo BKS 20C-098.81 đảm bảm an
toàn kỹ thuật đủ điều kiện để lưu hành tham gia giao thông đường bộ trước thời
điểm xảy ra tai nạn ngày 15/3/2023.
Tại Bản kết luận giám định số: 121/KL-KTHS ngày 10 tháng 4 năm 2023 của
Phòng K2 ng an tỉnh Bắc Kn kết luận: Xe mi moóc tải BKS 20R-005.25
đảm bảm an toàn kỹ thuật đủ điều kiện để lưu hành tham gia giao thông đường bộ
trước thời điểm xảy ra tai nạn ngày 15/3/2023.
Tại Bản kết luận giám định số: 125/KL-KTHS ngày 14 tháng 4 năm 2023 của
Phòng K2 Công an tỉnh Bắc Kn kết luận: Xe ô BKS 29C-829.85 đảm bảm an
toàn kỹ thuật đủ điều kiện để lưu hành tham gia giao thông đường bộ trước thời
điểm xảy ra tai nạn ngày 15/3/2023.
Thiệt hại:
Tại bản kết luận định gtài sản số 12/KL-HĐĐGTSTTHS, ngày 10/5/2023;
Bản kết luận định giá tài sản số 13/KL-HĐĐGTSTTHS, ngày 11/5/2023; văn bản
số 438/HĐĐG-TCKH ngày 11/10/2023; n bản số 734/HĐĐG-TCKH ngày
30/12/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C kết luận:
Giá trị thiệt hại xe ô đầu kéo BKS 20C-098.81 là: 225.410.000 (Hai trăm hai
mươi lăm triệu, bốn trăm mười nghìn) đồng. Giá trị thiệt hại của xe mi moóc
BKS 20R-005.25 là 17.270.000 đồng + 8.100.000 đồng = 25.370.000 đồng.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 33/KL-HĐĐGTSTTHS, ngày 18/9/2023
của Hội đồng định giá tài sản trong ttụng hình sự huyện C kết luận: Giá trị thiệt
hại của các cây ngô chiều cao từ 25-30cm trên diện 200m
2
tại thời điểm xảy ra
tai nạn ngày 15/3/2023 1.400.000 đồng. Giá trị thiệt hại của 01 cây xoan
đường kính gốc 40cm, chiều cao vút ngọn 15m tại thời điểm xảy ra tai nạn ngày
15/3/2023 là 100.000 đồng.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 22/KL-HĐĐGTSTTHS, ngày 23/6/2023
của Hội đồng định giá tài sản trong ttụng hình sự huyện C kết luận: Giá trị thiệt
hại của xe ô tô BKS 29C-829.85 tại thời điểm xảy ra tai nạn là 6.400.000 đồng.
Quá trình điều tra xác định không có thiệt hại về quặng sắt. Anh Đỗ Duy O xác
định không có thiệt hại về người và tài sản của bản thân.
7
Ngày 16/3/2023, quan điều tra đã thu thập 01 thẻ nhớ camera hành trình
gắn trên xe BKS 20C-098.81 kéo theo xe mi moóc BKS 20R-005.25 do Đỗ
Duy O giao nộp, kết quả kiểm tra thấy 02 tệp tin chứa nội dung diễn biến sự
việc, cụ thể: Tệp tin thứ nhất thể hiện diễn biến phía trước xe BKS 20C-098.81 kéo
theo xe mi moóc BKS 20R-005.25, thời gian thể hiện trên thiết bị ghi ngày
15/3/2023 hồi 18 giờ 58 phút 56 giây xe đi đến khu vực km 133+145 đường Q
thuộc thôn T, C, huyện C, tỉnh Bắc Kạn, khi đó mặt đường ướt, ít phương tiện
qua lại, khi chuẩn bđến đoạn cua về bên trái hướng Thái Nguyên - Bắc Kạn thì
01 xe ô đi ngược chiều nhưng không nhìn được kiểu dáng biển số xe. Tệp tin
thứ hai thể hiện diễn biến bên trong cabin xe BKS 20C-098.81 có một nam thanh
niên điều khiển xe xác định Đỗ Duy O, thời gian thể hiện trên thiết bị ghi ngày
15/3/2023 hồi 18 giờ 58 phút 54 giây xe đi tốc độ 46km/h, đến 18 giờ 58 phút 58
giây xe đi tốc độ 42km/h, thời điểm xảy ra đâm va giữa hai xe 18 giờ 58 phút 59
giây, ngay sau đó O đã bỏ tay lái nhao người sang ghế bên phụ của xe, xe đi theo
quán tính.
Ngày 16/5/2023, quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành thực nghiệm điều tra
bằng cách dựng lại hiện trường, tại buổi thực nghiệm cho kết quả vị trí điểm đâm va
(ký hiệu số 08) đã xác định khi khám nghiệm hiện trường phù hợp khả
năng xảy ra trên thực tế, còn vị trí đâm va theo ý kiến của Nguyễn Duy L (ký hiệu
số 03) khi khám nghiệm hiện trường không phù hợp, không thể xảy ra trên thực
tế. Bản thân L xác nhận kết quả thực nghiệm là đúng, khách quan.
Quá trình điều tra, lúc Nguyễn Duy L khai điểm đâm va giữa hai phương
tiện ghi nhận tại biên bản khám nghiệm hiện trường thực nghiệm điều tra là
không đúng. Tuy nhiên, sau đó L thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội
của mình, L khai tối ngày 15/3/2023, khi đang điều khiển xe ô tô BKS 29C-892.85
theo hướng Cao Bằng - Nội đến đoạn đường cua về bên phải thì nhìn thấy xe ô
đầu kéo BKS 20C-098.81 kéo theo moóc BKS 20R-005.25 do Đỗ Duy O điều
khiển ngược chiều, thấy vậy L đã đạp phanh nhằm giảm tốc độ nhưng do đi nhanh
trời mưa mặt đường ướt nên xe BKS 29C-892.85 văng sang phần đường bên trái
khiến phần thùng xe bên lái đâm va vào đầu xe bên lái của xe ô đầu kéo BKS
20C-098.81 gây tai nạn làm thiệt hại về tài sản. Lời khai này của bị can phù hợp
với lời khai của người làm chứng Đỗ Duy O, Xuân L4, Huy H các tài liệu
chứng cứ khác có trong hồvụ án. Nguyễn Duy L còn khai, sau khi xảy ra tai nạn
L dừng xe, nhìn qua gương chiếu hậu nhưng không thấy phương tiện nào trên
đường, bản thân cho rằng xe đi ngược chiều không bị thiệt hại đã đi nên L mới
điều khiển xe ô BKS 29C-892.85 theo hướng Nội khoảng 300 - 500m thì
dừng lại đoạn đường thẳng để kiểm tra xe. Tại đây L gặp, nói chuyện với anh
Ngọc L3 vviệc xảy ra tai nạn, xe va chạm với xe L đã đi rồi. Tại vị trí này L
không nhìn thấy, không nghe thấy tiếng nổ của xe đầu kéo BKS 20C-098.81 cho
đến khi L gặp Huy H thì mới biết hậu quả xảy ra trong vụ tai nạn nên điều
khiển xe quay lại hiện trường để giải quyết. Lời khai này của bị can phù hợp với
lời khai của người làm chứng Ngọc L3. Ngoài ra, L khai tại đường B - ChM,
H dùng tay không đánh vào thái dương bên trái một người nam giới (L không
8
quen biết) dùng chân đạp vào bụng L nhưng không gây thương tích. Lời khai này
của L không phù hợp với lời khai của Lê Huy H, Lê Xuân L4.
Quá trình điều tra xác định:
- Xe ô đầu kéo biển số đăng 20C-098.81 kéo theo sơ mi moóc biển số
đăng 20R-005.25: i sản của Công ty cổ phần P, địa chỉ tổ I, phường T,
thành phố T, tỉnh Thái Nguyên, đại diện theo pháp luật ông Nguyễn Tiến Đ -
Giám đốc. Đỗ Duy O là lái xe thuê cho công ty thông qua hợp đồng, ngày
15/3/2023 xe chở 32,590 kg quặng sắt cho công ty Trách nhiệm hữu hạn B (địa chỉ
tại tổ A, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên), đại diện theo pháp luật
Nguyễn Hương G - Giám đốc. Ông Đ, G y quyền cho ông Huy H tham gia
giải quyết vụ án.
- Xe ô biển số đăng 29C-892.85: tài sản của Công ty Trách nhiệm
hữu hạn S, địa chỉ số A, ngõ B, phố N, phường Đ, quận B, Hà Nội, đại diện theo
pháp luật là ông Hoàng Việt H2 - Giám đốc. Nguyễn Duy L lái xe thuê cho công
ty thông qua hợp đồng. Ông H2 y quyền cho L tham gia giải quyết những vấn đề
pháp lý liên quan đến phương tiện.
- Nguyễn Duy L có giấy phép lái xe hạng A1, C; Đỗ Duy O có giấy phép lái xe
ô hạng E, FC. Thời điểm xảy ra tai nạn, L và O không nồng độ cồn trong
người, test ma túy kết quả âm tính.
- Các cây ngô 01 cây xoan bị thiệt hại của gia đình anh Sằm Văn K, địa
chỉ tại: Thôn N, C, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Gia đình anh K gồm các thành
viên: Anh Sằm Văn K, bà Phạm Thị N, bà Tạ Thị Thanh L2, anh Sằm Văn K1. Các
thành viên trong gia đình đã ủy quyền cho anh K tham gia tố tụng giải quyết vụ án.
- Năm 2015, Nguyễn Duy L bị xử phạt vi phạm hành chính, tính đến ngày
phạm tội (15/3/2023) được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.
Đại diện bị hại là anh Lê Huy H đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự,
đề nghị cho L được cải tạo tại địa phương, ngoài ra L bố vợ là người có công với
cách mạng.
Vật chứng, tài sản, giấy tờ tạm giữ và xử lý trong vụ án gồm:
- Xe ô BKS 29C-892.85, nhãn hiệu ISUSU, số loại FRR90N4NISUTM1;
giấy chứng nhận kiểm định An toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao
thông giới đường bộ số EA 0943760 do Trung tâm Đ1 cấp ngày 08/7/2022 đối
với xe ô tô BKS 29C-892.85; giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 131227 do Phòng
C Công an thành phố H cấp ngày 29/11/2021 đối với xe ô tô BKS 29C-892.85; giấy
chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô số
22BB220235106 do Công ty B1 cấp ngày 15/7/2022; giấy phép lái xe hạng A1, C
số 170134003739 mang tên Nguyễn Duy L. Quá trình điều tra, quan Cảnh t
điều tra Công an huyện C ra Quyết định xử vật chứng, đồ vật, tài liệu bằng hình
thức trả lại tài sản và các giấy tờ trên cho Nguyễn Duy L.
- Xe ô đầu kéo BKS 20C-098.81, nhãn hiệu CNHTC, số loại
ZZ4257N324N1B; sơ mi moóc BKS 20R-005.25, nhãn hiệu DOOSUNG, số loại
DV-DSKS-250B-1; giấy chứng nhận kiểm định An toàn kỹ thuật bảo vệ môi
trường phương tiện giao thông giới đường bộ sEA 0094947, do Trung tâm Đ2
9
cấp ngày 13/4/2022 đối với xe ô BKS 20C-098.81; giấy chứng nhận kiểm định
An toàn kỹ thuật bảo vệ môi trường phương tiện giao thông giới đường bộ số
EA 0094953 do Trung tâm đăng kiểm xe giới 20-03D cấp ngày 13/4/2022 đối
với xe mi moóc BKS 20R-005.25; giấy biên nhận thế chấp số 243/GBNTC-
CNLX-KHDN ngày 08/9/2022 của Ngân hàng TMCP C1 chi nhánh L5 bản sao
Chứng nhận đăng xe ô số 018859 do Phòng C Công an tỉnh T cấp ngày
11/4/2016 đối với phương tiện xe ô tô đầu kéo BKS 20C-098.81; giấy biên nhận thế
chấp số 244/GBNTC-CNLX-KHDN ngày 08/9/2022 của Ngân hàng Thương mại
cổ phần C1 chi nhánh L5 bản sao Chứng nhận đăng ký xe ô số 00793 do
Phòng C Công an tỉnh T cấp ngày 13/4/2016 đối với phương tiện mi moóc tải
BKS 20R-005.25; giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ
xe ô số 1749708 do Công ty cổ phần B2 cấp ngày 04/4/2022; giấy phép lái xe ô
hạng E, FC của Đỗ Duy O; 32190kg quặng sắt Manhetit0-8mm sau khi trục vớt.
Quá trình điều tra, quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C ra Quyết định xử
đồ vật, tài sản bằng hình thức trả lại giấy phép lái xe cho Đỗ Duy O, các tài sản còn
lại trả cho Lê Huy H.
- 01 nắp hậu thùng xe tải kích thước 1,1x1,2m; 01 tấm kim loại hình chữ nhật
dòng chữ số 29C-892.85, kích thước 2,2x0,5m; 01 thanh kim loại kích thước
2,37x0,05x0,08m; 01 thanh kim loại kích thước 1,1x0,14x0,04m của xe ô BKS
29C-892.85; 01 mảnh nhựa kích thước 0,20x0,09m và 01 gương chiếu hậu kích
thước 0,63x0,25x0,09m của xe ô đầu kéo BKS 20C-098.81. Toàn bộ vật chứng
trên đang được bảo quản để xử lý theo quy định.
- 01 thẻ nhớ ghi lại diễn biến vụ việc được chuyển theo hồ sơ vụ án.
Về trách nhiệm dân sự:
- Anh Sằm Văn K đã nhận 5.000.000đ do anh Huy H bồi thường không
yêu cầu Nguyễn Duy L phải bồi thường thiệt hại đối với tài sản các cây ngô và
xoan; ông Hoàng Việt H2 không yêu cầu L bồi thường thiệt hại đối với tài sản xe ô
BKS 29C-892.85. Quá trình điều tra, Nguyễn Duy L tự nguyện bồi thường thiệt
hại đối với tài sản xe ô đầu kéo BKS 20C-098.81 kéo theo mi moóc BKS
20R-005.25 tổng số tiền 250.000.000đ (hai trăm năm mươi triệu đồng), đại diện bị
hại anh Huy H đã nhận đủ số tiền trên không yêu cầu L bồi thường khác
đối với tài sản bị thiệt hại.
- Sau khi xảy ra sviệc, Công ty B1 (chi nhánh Công ty B2) đã nhận được
thông báo tai nạn yêu cầu bồi thường của chủ xe ô BKS 29C-892.85. Tuy
nhiên, Nguyễn Duy L (là người được ủy quyền) tự liên hệ giải quyết, không yêu cầu
xem xét trách nhiệm bồi thường của công ty bảo hiểm trong vụ án này.
Tại Cáo trạng số 54/CT-VKSCM ngày 29 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm
sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn truy tố Nguyễn Duy L về tội “Vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm d khoản 1 Điều 260 của Bộ
luật Hình sự.
* Tại phiên tòa:
- Bị cáo Nguyễn Duy L thành khẩn khai nhận hành vi vi phạm của mình, thừa
nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn truy tố
10
đối với bị cáo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Ngoài ra, bị cáo xác nhận
không có việc H và L4 đánh bị cáo, đồng thời đề nghị không xem xét về vấn đề này.
Tại lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được cải tạo tại
địa phương.
- Đại diện hợp pháp của bị hại Công ty Cổ phần P là anh Lê Huy H có ý kiến:
+ Về trách nhiệm dân sự: bị hại bị cáo đã thỏa thuận bồi thường xong,
không yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét. Không yêu cầu bị cáo L bồi hoàn số tiền
5.000.000đ mà H đã bồi thường cho anh K.
+ Về trách nhiệm hình sự đối với bcáo L: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét
miễn trách nhiệm hình scho bị cáo L, đề nghị xem xét cho bị cáo được cải tạo tại
địa phương.
- Tại đơn xin xét xử vắng mặt, anh Sằm Văn K có ý kiến: Giữ nguyên lời khai,
quan điểm tại quá trình điều tra. Về trách nhiệm dân sự: Không yêu cầu bị cáo L bồi
thường. Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị xem xét miễn truy cứu trách nhiệm hình
sự cho bị cáo L, nếu không thì đề nghị cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất,
được cải tạo tại địa phương.
- Tại đơn xin xét xử vắng mặt, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - chị
Nguyễn Thị Ngọc H1 ý kiến: Giữ nguyên lời khai, quan điểm tại quá trình điều
tra. Xác định số tiền 250.000.000đ bị cáo L đã bồi thường cho bị hại Công ty
Trách nhiệm hữu hạn S tài sản chung vợ chồng của chị H1 bị cáo, không yêu
cầu bị cáo L bồi hoàn số tiền của chị đã góp vào để bồi thường cho đại diện bị hại.
- Tại đơn xin xét xử vắng mặt, Người đại diện của người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan - Công ty Trách nhiệm hữu hạn S là ông Hoàng Việt H2 có ý kiến: Giữ
nguyên lời khai, quan điểm tại quá trình điều tra. Không yêu cầu bị cáo L bồi
thường thiệt hại xe BKS 29C-892.85. Không yêu cầu thêm đối với thiệt hại của
xe ô đầu kéo BKS 20C-098.81 mi moóc BKS 20R-005.25. Ủy quyền
cho bị cáo L toàn quyền xử lý các vấn đề liên quan tới chiếc xe BKS 29C-892.85.
- Người làm chứng Ngọc L3, tại đơn xin xét xử vắng mặt ý kiến giữ
nguyên lời khai tại quá trình điều tra và không có ý kiến gì khác.
- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn
Duy L, trên cơ sở đó đề nghị Hội đồng xét xử:
+ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy L phạm tội “Vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ”.
+ Về hình phạt: Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 260; Điều 36; Điều 50; Điểm b,
s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy L từ
18 tháng đến 24 tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn tính từ ngày quan thi
hành án hình sự cấp huyện nhận được quyết định thi hành án. Giao bị cáo cho Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục.
Đề nghị miễn việc khấu trừ thu nhập đối với bị cáo do bị cáo lao động tự do,
không có thu nhập ổn định, có xác nhận của chính quyền địa phương.
Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo do bị không làm
nghành nghề, công việc nhất định.
11
+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật
Tố tụng hình sự:
Đối với xe tô đầu kéo BKS 20C-098.81; xe sơmi rơ moóc BKS 20R-
005.25; xe ô BKS 29C-892.85 cùng các giấy tờ liên quan giấy phép lái xe,
quặng sắt, quá trình điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu đúng quy định. Do đó, đề
nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với 01 nắp hậu thùng xe tải kích thước 1,1x1,2m; 01 tấm kim loại hình
chữ nhật dòng chữ s29C-892.85, kích thước 2,2x0,5m; 01 thanh kim loại kích
thước 2,37x0,05x0,08m; 01 thanh kim loại kích thước 1,1x0,14x0,04m của xe tải
BKS 29C-892.85, đề nghị trả lại cho chủ sở hữu Công ty Trách nhiệm hữu hạn S.
Đối với 01 mảnh nhựa kích thước 0,20x0,09m; 01 gương chiếu hậu kích thước
0,63x0,25x0,09m của xe ô đầu kéo BKS 20C-098.81, người đại diện hợp pháp
cho chủ sở hữu là anh Lê Huy H không yêu cầu lấy lại, xét thấy không còn giá trị do
đó đề nghị tịch thu, tiêu hủy.
01 thẻ nhớ ghi lại diễn biến vụ việc lưu theo hồ sơ vụ án.
+ Về trách nhiệm dân sự:
Anh Sằm Văn K không yêu cầu Nguyễn Duy L phải bồi thường thiệt hại đối
với tài sản là các cây ngô và xoan; ông Hoàng Việt H2 không yêu cầu L bồi thường
thiệt hại đối với tài sản xe ô BKS 29C-892.85. Quá trình điều tra, Nguyễn Duy L
tự nguyện bồi thường thiệt hại đối với tài sản xe ô đầu kéo BKS 20C-098.81 kéo
theo sơ mi moóc BKS 20R-005.25 tổng số tiền 250.000.000đ (hai trăm m
mươi triệu đồng), đại diện bị hại anh Huy H đã nhận đủ số tiền trên không
yêu cầu L bồi thường khác đối với tài sản bị thiệt hại. Anh Huy H không yêu
cầu bị cáo L bồi hoàn số tiền 5.000.000đ H đã bồi thường cho anh K. Chị H1
không yêu cầu bị cáo L bồi hoàn số tiền của chị đã góp vào để bồi thường cho đại
diện bị hại. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét về trách nhiệm dân sự
trong vụ án.
Công ty B1 (Chi nhánh Công ty B2) đã nhận được thông báo tai nạn yêu
cầu bồi thường của chủ xe ô BKS 29C-892.85. Tuy nhiên, Nguyễn Duy L (là
người được ủy quyền) tự liên hệ giải quyết, không yêu cầu xem xét trách nhiệm bồi
thường của công ty bảo hiểm trong vụ án này nên đề nghị Hội đồng xét xkhông
xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Hành vi, quyết định ttụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử; chứng cứ, tài liệu do quan điều tra, Điều tra viên, Viện
kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập, do bị cáo những người tham gia tố tụng cung
cấp đều đảm bảo theo quy định của pháp luật.
[2] Về tội danh:
12
Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị
cáo tại phiên tòa phù hợp với những tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án đã
được thẩm tra tại phiên tòa, từ đó có đủ cơ sở xác định:
Vào hồi 18 giờ 58 phút ngày 15/3/2023, tại km 133+145 đường quốc lộ 3
thuộc thôn T, C, huyện C, tỉnh Bắc Kạn, Nguyễn Duy L điều khiển xe ô BKS
29C-892.85 theo hướng Bắc Kạn - Nội vi phạm quy định về an toàn giao thông
đường bộ do không giảm tốc độ an toàn khi báo hiệu cảnh báo nguy hiểm, trời
mưa nên đã điều khiển xe ô lấn sang phần đường của xe đi ngược chiều dẫn đến
đâm va với xe ô đầu kéo BKS 20C-098.81 kéo theo mi moóc BKS 20R-
005.25 do Đỗ Duy O (Sinh năm 1985, trú tại xóm C, C, huyện Đ, tỉnh Thái
Nguyên) điều khiển chở quặng sắt đi theo hướng ngược chiều gây tai nạn. Hậu quả,
xe đầu kéo BKS 20C-098.81 kéo theo mi moóc BKS 20R-005.25 hỏng,
thiệt hại 01 cây xoan ruộng ngô rộng 200m
2
. Qua định giá xác định tổng giá trị
tài sản bị thiệt hại 252.280.000 (Hai trăm năm mươi hai triệu, hai trăm tám mươi
nghìn) đồng.
Hành vi Nguyễn Duy L điều khiển xe ô tham gia giao thông gây tai nạn đã
vi phạm quy định tại khoản 1 điều 9, khoản 1 điều 12, khoản 1 điều 17 Luật Giao
thông đường bộ.
Khoản 1 điều 9 Luật giao thông đường bộ quy định:
“1. Người tham gia giao thông phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi
đúng làn đường, phần đường quy định và phải chấp hành hệ thống báo hiệu đường
bộ”.
Khoản 1 điều 12 Luật giao thông đường bộ quy định:
“1. Người lái xe … phải tuân thủ quy định về tốc độ xe chạy trên đường…”
Khoản 1 điều 17 Luật giao thông đường bộ quy định:
“1. Trên đường không phân chia thành hai chiều xe chạy riêng biệt, hai xe đi
ngược chiều tránh nhau, người điều khiển phải giảm tốc độ và cho xe đi về bên phải
theo chiều xe chạy của mình”.
Hành vi vi phạm của bị cáo nguy hiểm cho hội được quy định trong Bộ
luật Hình sự, trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ gây
thiệt hại về tài sản của người khác. Bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có năng
lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi ý. Hành vi của bị cáo nguyên nhân
trực tiếp gây ra tai nạn và dẫn tới hậu quả là thiệt hại về tài sản là: 252.280.000 (Hai
trăm năm mươi hai triệu, hai trăm tám mươi nghìn) đồng.
Hành vi nêu trên của Nguyễn Duy L đủ yếu tố cấu thành tội Vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộquy định tại điểm d khoản 1 Điều 260 Bluật
Hình sự.
Điều luật có nội dung:
“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ vi phạm quy định về an toàn
giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
13
a) …
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Từ những cơ sở nêu trên, xét thấy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện
Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn truy tố Nguyễn Duy L về tội "Vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ” quy định tại điểm d khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự
căn cứ, đúng pháp luật.
[3] V tính cht và mức độ nguy him cho xã hi ca hành vi phm ti:
Ti phm Nguyn Duy L đã thực hin ti phm nghiêm trng, tính cht
mức độ nguy him cho hi ln, gây thit hi v tài sn của người khác, ảnh
hưởng xấu đến an toàn công cộng tại địa phương.
[4] V nhân thân và các tình tiết tăng nặng, gim nh trách nhim hình s:
B cáo không tin án, tin s. Năm 2015 bị cáo b x pht vi phm hành
chính v hành vi c ý gây thương tích, tính đến ngày phm tội được coi chưa bị
x phạt hành chính, do đó b cáo nhân thân không tt. B cáo không tình tiết
tăng nặng trách nhim hình s.
Quá trình điều tra, truy tố tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo thể
hiện thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo chủ động, tích cực
bồi thường cho bị hại do đó bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo ông nội của
vợ ông Nguyễn Văn T1 được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến
hạng ba; bị hại đại diện hợp pháp của bị hại xin miễn truy cứu trách nhiệm hình
sự, đề nghị giảm nhhình phạt cho bcáo, cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.
Do đó, bị cáo được áp dng tình tiết gim nh ti khoản 2 Điều 51 B lut Hình s.
[5] Về hình phạt:
Trên sở quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất mức độ nguy
hiểm cho hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ tăng
nặng trách nhiệm hình sự:
Về hình phạt chính: Xét thấy, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi ý,
gây thiệt hại v tài sản. Ngay sau khi xảy ra s việc, bị cáo đã nhanh chóng tự
nguyện bồi thường thiệt hại toàn toàn cho các bị hại. Các bị hại đều ý kiến xin
miễn trách nhiệm hình sự hoặc xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được
cải tạo tại địa phương. Bị cáo cũng đã thành khẩn khai báo và hoàn toàn ăn năn, hối
cải về hành vi của mình. Bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, không phải
chịu tình tiết tăng nặng, Bị cáo nơi t ràng, Hội đồng xét xử xét thấy
không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi hội, việc cho bị cáo cải tạo
không giam giữ vừa tạo điều kiện cho bị cáo được cải tạo tại địa phương dưới sự
giám sát của gia đình, chính quyền địa phương vẫn đảm bảo tính răn đe, giáo dục,
phòng ngừa chung, phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi, đồng thời
14
thể hiện tính nhân văn, khoan hồng của pháp luật hình sự. Do đó, có đủ điều kiện áp
dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo Nguyễn Duy L.
Về khấu trừ thu nhập: Xác định bị cáo lao động tự do, hiện tại không
nghề nghiệp, không thu nhập ổn định, do đó miễn việc khấu trừ thu nhập đối với
bị cáo.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do, hiện tại không ngành nghề,
không làm công việc nhất định, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị
cáo.
[6] Về vật chứng:
- Đối với xe tô đầu kéo BKS 20C-098.81; xe sơmi moóc BKS 20R-
005.25; xe ô BKS 29C-892.85 cùng các giấy tờ liên quan giấy phép lái xe,
quặng sắt, quá trình điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu đúng quy định. Do đó, Hội
đồng xét xử không xem xét.
- Đối với 01 nắp hậu thùng xe tải kích thước 1,1x1,2m; 01 tấm kim loại hình
chữ nhật dòng chữ s29C-892.85, kích thước 2,2x0,5m; 01 thanh kim loại kích
thước 2,37x0,05x0,08m; 01 thanh kim loại kích thước 1,1x0,14x0,04m của xe tải
BKS 29C-892.85, xét thấy cần trả lại cho chủ sở hữu Công ty trách nhiệm hữu
hạn S.
- Đối với 01 mảnh nhựa kích thước 0,20x0,09m; 01 gương chiếu hậu kích
thước 0,63x0,25x0,09m của xe ô đầu kéo BKS 20C-098.81, người đại diện hợp
pháp cho chủ sở hữu là anh Lê Huy H không yêu cầu lấy lại, xét thấy không còn giá
trị do đó cần tịch thu, tiêu hủy.
- 01 thẻ nhớ ghi lại diễn biến vụ việc lưu theo hồ sơ vụ án.
[7] Về trách nhiệm dân sự:
Anh Sằm Văn K không yêu cầu Nguyễn Duy L phải bồi thường thiệt hại đối
với tài sản là các cây ngô và xoan; ông Hoàng Việt H2 không yêu cầu L bồi thường
thiệt hại đối với tài sản xe ô BKS 29C-892.85. Quá trình điều tra, Nguyễn Duy L
tự nguyện bồi thường thiệt hại đối với tài sản xe ô đầu kéo BKS 20C-098.81 kéo
theo sơ mi moóc BKS 20R-005.25 tổng số tiền 250.000.000đ (hai trăm m
mươi triệu đồng), đại diện bị hại anh Huy H đã nhận đủ số tiền trên không
yêu cầu L bồi thường khác đối với tài sản bị thiệt hại. Anh Huy H không yêu
cầu bị cáo L bồi hoàn số tiền 5.000.000đ H đã bồi thường cho anh K. Chị H1
không yêu cầu bị cáo L bồi hoàn số tiền của chị đã góp vào để bồi thường cho đại
diện bị hại. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét về trách nhiệm dân sự trong vụ
án.
Công ty B1 (Chi nhánh Công ty B2) đã nhận được thông báo tai nạn yêu
cầu bồi thường của chủ xe ô BKS 29C-892.85. Tuy nhiên, Nguyễn Duy L (là
người được ủy quyền) tự liên hệ giải quyết, không yêu cầu xem xét trách nhiệm bồi
thường của công ty bảo hiểm trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Về vấn đề khác:
Trong vụ án này, khi xảy ra tai nạn Nguyễn Duy L không biết có hậu quả, thiệt
hại xảy ra nên đã điều khiển xe ô đi nhưng sau đó L đã điều khiển xe quay lại
15
hiện trường. Xét thấy, hành vi của L không nhằm mục đích trốn tránh trách nhiệm
nên quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C không xem xét xử phù hợp
với quy định pháp luật.
Ngoài ra, tại quá trình điều tra, bị o khai tại đường B - Chợ M, Huy H
dùng tay không đánh vào thái dương bên trái, Xuân L4 dùng chân đạp vào bụng
L nhưng H L4 không thừa nhận. Đồng thời, tại phiên tòa bị cáo đã thay đổi lời
khai, xác nhận không có việc H và L4 đánh bị cáo, đồng thời đề nghị không xem xét
về vấn đề này nữa. Xét thấy, việc quan điều tra không xem xét xử đối với H
L4 là có cơ sở.
[9] Về quan điểm giải quyết vụ án của Viện kiểm sát nhân dân:
Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới về việc giải quyết vụ
án n cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, được Hội đồng xét xchấp
nhận.
[10] Về án phí:
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng
hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 260, Điều 36, Điều 50, điểm b, s khoản 1, khoản
2 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331,
Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy L phạm tội Vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy L 18 (Mười tám) tháng cải tạo
không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Cơ quan Thi hành án
hình sự Công an cấp huyện nhận được quyết định thi hành án.
Miễn việc khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Nguyễn Duy L.
Giao bị cáo Nguyễn Duy L cho Ủy ban nhân dân xã L, huyện L, tỉnh Hòa Bình
giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành cải tạo không giam giữ. Gia đình bị
cáo Nguyễn Duy L trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân L, huyện L,
tỉnh Hòa Bình giám sát, giáo dục bị cáo.
Trường hợp người chấp hành án cải tạo không giam githay đổi nơi trú thì
thực hiện theo quy định tại Điều 100 của Luật Thi hành án hình sự.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Về vật chứng:
16
- Trả lại cho chủ sở hữu Công ty Trách nhiệm hữu hạn S: 01 nắp hậu thùng
xe tải kích thước 1,1x1,2m; 01 tấm kim loại hình chữ nhật dòng chữ số 29C-
892.85, kích thước 2,2x0,5m; 01 thanh kim loại kích thước 2,37x0,05x0,08m; 01
thanh kim loại kích thước 1,1x0,14x0,04m.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 mảnh nhựa kích thước 0,20x0,09m ; 01 gương chiếu
hậu kích thước 0,63x0,25x0,09m.
- 01 thẻ nhớ ghi lại diễn biến vụ việc lưu theo hồ sơ vụ án.
4. Về án phí: B cáo phi chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) án phí hình s
thm.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7, 7a 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự”.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại Công ty Cổ phần P có quyền kháng cáo
trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Các bị hại: Anh K, N,
chị L2, anh K1; những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị H1, Công ty
Trách nhiệm hữu hạn S quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể
từ ngày nhận được Bản án hoặc ngày Bản án được niêm yết theo quy định của pháp
luật.
Nơi nhận:
- Vin kim sát nhân dân tnh Bc Kn;
- Vin kim sát nhân dân huyn Ch Mi;
- Công an huyn Ch Mi;
- Chi cc Thi hành án dân s huyn Ch Mi;
- Tòa án nhân dân tnh Bc Kn;
- S Tư pháp tỉnh Bc Kn;
- Thi hành án hình s;
- B cáo;
- B hi (5)
- Người có QLNVLQ (2)
- Lưu: VT, hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lƣờng Thị Thu Hòa
17
CÁC HI THM NHÂN DÂN
THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Văn Ngọ
Lƣờng Thị Thu Hòa
18
Tải về
Bản án 19/2024/HS-ST Bắc Kạn Bản án 19/2024/HS-ST Bắc Kạn

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án 19/2024/HS-ST Bắc Kạn Bản án 19/2024/HS-ST Bắc Kạn

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất