Bản án số 19/2019/HNGĐ-ST ngày 05/09/2019 của TAND TX. Bình Long, tỉnh Bình Phước về tranh chấp ly hôn
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
-
Bản án số 19/2019/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 19/2019/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 19/2019/HNGĐ-ST ngày 05/09/2019 của TAND TX. Bình Long, tỉnh Bình Phước về tranh chấp ly hôn |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TX. Bình Long (TAND tỉnh Bình Phước) |
Số hiệu: | 19/2019/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 05/09/2019 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Xét xử |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 19/2019/HNGĐ-ST NGÀY 05/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 05 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bình Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 138/2019/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn”. theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2019/QĐXX-ST ngày 20 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng Nh, sinh năm 1979 (Có mặt)
Bị đơn: Anh Đinh Thanh H, sinh năm 1977 (Xin vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Tổ 3, khu phố H Th, phường HCh, thị xã BL, tỉnh Bình Phước.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn xin ly hôn cùng các tài liệu chứng cứ kèm theo của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng Nh trình bày:
Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng Nh và anh Đinh Thanh H quen biết và tìm hiểu nhau trong khoảng thời gian ba năm sau đó tự nguyện kết hôn từ năm 1999, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn An Lộc, huyện Bình Long nay là phường An Lộc, thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước, anh, chị kết hôn lần đầu. Sau khi kết hôn anh, chị chung sống với nhau tại Tổ 3, khu phố H Th, phường HCh, thị xã BL, tỉnh Bình Phước. Quá trình chung sống chị Nh và anh H phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng cãi nhau; Mâu thuẫn trầm trọng vào tháng 5/2018 khiến chị Nh phải qua nhà người em gái ở nhờ khoảng 10 ngày sau đó vợ chồng anh, chị có tạo điều kiện cho nhau cơ hội quay về chung sống với nhau nhưng vẫn không có kết quả tốt. Từ tháng 1/2019 chị Nh và con gái Đinh Thụy Như A phải bỏ về nhà mẹ đẻ của chị Nh để sinh sống tại khu phố AB, phường AL, thị xã BL và ly thân từ đó đến nay. Nay vợ chồng không còn tôn trọng nhau, không còn yêu thương nhau, không thể hàn gắn được, nên chị Nh yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Đinh Thanh H.
Bị đơn anh Đinh Thanh H trình bày ý kiến: Anh H và chị Nguyễn Thị Hồng Nh tự nguyện chung sống với nhau từ năm 1999, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã An Lộc, huyện Bình Long nay là phường An Lộc, thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước, anh, chị tự nguyện kết hôn và kết hôn lần đầu. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng mười lăm năm thì phát sinh mâu thuẫn, anh H cho rằng mâu thuẫn nhỏ. Nay chị Nh yêu cầu ly hôn với anh H, anh H mong muốn đoàn tụ gia đình, xin có thời gian để quan tâm, chăm lo cho vợ, con.
Về tài sản chung và công nợ: Hai bên đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về con chung: Quá trình chung sống anh H và chị Nh có hai con chung tên Đinh Thanh Nh, sinh ngày 10/9/2000 và Đinh Thụy Như A, sinh ngày 17/7/2008. Sau khi ly hôn chị Nh có nguyện vọng trực tiếp nuôi con chung tên Đinh Thụy Như A cho đến khi con trưởng thành đủ 18 tuổi và có khả năng lao động tự nuôi sống bản thân, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Đối với con Đinh Thanh Nh đã trưởng thành, đủ 18 tuổi, tự lao động được nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh H có ý kiến đồng ý giao cho chị Nh trực tiếp nuôi con chung tên Đinh Thụy Như A cho đến khi con trưởng thành theo nguyện vọng của chị Nh và cháu A.
Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bình Long:
Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền,Thẩm phán đã thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử đúng thành phần, quy định của pháp luật về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Hồng Nh, đề nghị Hội đồng xét xử giao cho chị Nguyễn Thị Hồng Nh nuôi dưỡng con chung tên Đinh Thụy Như A, sinh ngày 17/7/2008.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng Nh, bị đơn anh Đinh Thanh H. Anh H có địa chỉ tại Tổ 3, khu phố H Th, phường HCh, thị xã BL, tỉnh Bình Phước, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp ly hôn” theo quy định tại Điều 51 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước. Tại phiên tòa bị đơn anh Đinh Thanh H vắng mặt, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ, ngày 04 tháng 9 năm 2019 anh Đinh Thanh H có gửi đơn yêu cầu Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt, theo quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Đinh Thanh H.
[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng Nh và anh Đinh Thanh H quen biết và tìm hiểu nhau trong khoảng thời gian ba năm, sau đó tự nguyện kết hôn từ năm 1999, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn An Lộc, huyện Bình Long nay là phường An Lộc, thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước, anh chị kết hôn lần đầu. Sau khi kết hôn anh, chị chung sống với nhau tại Tổ 3, khu phố H Th, phường HCh, thị xã BL, tỉnh Bình Phước. Vợ chồng chung sống hạnh phúc trong khoảng thời gian mười lăm năm sau đó phát sinh mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng cãi nhau, mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng đã tạo điều kiện cho nhau cơ hội đoàn tụ, tha thứ bỏ qua và quay về sống chung nhưng vẫn không có kết quả. Tháng 1/2019 chị Nh cùng con gái Đinh Thụy Như A bỏ nhà về sống cùng cha mẹ đẻ của chị Nh tại khu phố AB, phường AL, thị xã BL và anh, chị ly thân từ đó đến nay. Nay vợ chồng không còn yêu thương nhau, không thể hàn gắn được, chị Nh yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Đinh Thanh H. Anh H vắng mặt tại phiên tòa nhưng qua bản trình bày ý kiến anh H đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị Nh. Hội đồng xét xử xét thấy chị Nh và anh H kết hôn với nhau nhằm mục đích xây dựng gia đình hạnh phúc nhưng quá trình chung sống anh, chị bất đồng quan điểm, không còn thương yêu nhau, thường xuyên cải vã khiến gia đình mất hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được nay anh H và chị Nh không đoàn tụ gia đình và yêu cầu ly hôn để ổn định cuộc sống là phù hợp với quy định của pháp luật tại các Điều 53 và 55 Luật hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử ghi nhận chị Nguyễn Thị Hồng Nh và anh Đinh Thanh H thống nhất thuận tình ly hôn.
[3] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[4] Về con chung: Quá trình chung sống chị Nguyễn Thị Hồng Nh và anh Đinh Thanh H có hai con chung tên Đinh Thanh Nh, sinh ngày 10/9/2000 đã trưởng thành, tự lao động nuôi sống bản thân nên không yêu cầu giải quyết và Đinh Thụy Như A, sinh ngày 17/7/2008, sau khi ly hôn chị Như có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành, chị Như không yêu cầu anh Hải cấp dưỡng nuôi con. Anh Hải vắng mặt tại phiên tòa qua ý kiến trình bày anh Hải đồng ý giao cho chị Như nuôi dưỡng con chung tên Đinh Thụy Như A, Hội đồng xét xử xét thấy sự thỏa thuận của các đương sự là phù hợp với nguyện vọng của cháu A và phù hợp với quy định của pháp luật tại các Điều 58 và 71 Luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận. Giao cho chị Nguyễn Thị Hồng Nh trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Đinh Thụy Như A, sinh ngày 17/7/2008 cho đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi và có khả năng lao động tự nuôi sống bản thân. Chị Nh không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung nên không đặt ra.
Anh H được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, chị Như không có quyền ngăn cấm cản trở.
[5] Về án phí: Theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án thì chị Nguyễn Thị Hồng Nh chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, các Điều 51, Điều 53, Điều 55, Điều 58 và Điều 71của Luật hôn nhân và gia đình, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng Nh và anh Đinh Thanh H thuận tình ly hôn.
2. Về tài sản chung và công nợ: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.
3. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Hồng Nh trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Đinh Thụy Như A, sinh ngày 17/7/2008 cho đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi và có khả năng lao động tự nuôi sống bản thân. Chị Nh không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung nên không đặt ra.
Anh Đinh Thanh H được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, chị Nguyễn Thị Hồng Nh không có quyền ngăn cấm cản trở.
4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Hồng Nh chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0004497 ngày 13/5/2019 của Chi Cục Thi hành án dân sự thị xã Bình Long.
Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!