Bản án số 18/2024/HNGĐ-ST ngày 06/08/2024 của TAND huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 18/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 18/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 18/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 18/2024/HNGĐ-ST ngày 06/08/2024 của TAND huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Bình Gia (TAND tỉnh Lạng Sơn) |
Số hiệu: | 18/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/08/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chị Hoàng Thị H và anh Triệu Văn K được tự do tìm hiểu nhau và được hai bên gia đình tổ chức hôn lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương; đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện B ngày 01 tháng 11 năm 2013. Sau khi kết hôn hai vợ chồng sinh sống tại thôn P, xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Trong thời gian 13 năm chung sống anh Triệu Văn K không chịu tu trí làm ăn, san sẻ công việc, không chăm lo cho con cái, mải chơi cờ bạc, thi thoảng đánh đập chị Hoàng Thị H. Từ tháng 02/2024 âm lịch chị Hoàng Thị H ra ở riêng tại Bưu điện xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Từ đó đến nay, hai vợ chồng sống ly thân. Vì mục đích hôn nhân của vợ chồng không đạt được, chị Hoàng Thị H đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Triệu Văn K. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN BÌNH GIA
TỈNH LẠNG SƠN
Bản án số: 18/2024/HNGĐ-ST
Ngày 06-8-2024
V/v ly hôn, tranh chấp nuôi con
chung, nợ chung khi ly hôn
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH GIA, TỈNH LẠNG SƠN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Dương Thị Hiệt.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Vi Thị Yến Quỳnh.
2. Ông Hoàng Văn Chung.
- Thư ký phiên tòa: Bà Trương Thị Hợi – Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn
tham gia phiên toà: Bà Hoàng Thị Lý - Kiểm sát viên.
Trong ngày 06 tháng 8 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình
Gia, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai
vụ án thụ lý số: 31/2024/TLST-
HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2024 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con chung, nợ
chung khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2024/QĐXXST-
HNGĐ ngày 03 tháng 7 năm 2024, thông báo chuyển ngày xét xử số 01/2024
ngày 15 tháng 7 năm 2024 và quyết định hoãn phiên tòa số 09/2024/QĐST-
HNGĐ, ngày 19 tháng 7 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H, sinh năm 1992. Có mặt.
2. Bị đơn: Anh Triệu Văn K, sinh năm 1990. Vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Thôn P, xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ngân Hàng C.
Địa chỉ: A Linh Đườngphường Hoàng Liệtquận Hoàng MaiHà N
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Nguyên N, chức vụ Phó Giám đốc
phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Vắng
mặt.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và các lời khai có trong hồ sơ vụ án cũng như tại
phiên tòa, nguyên đơn chị Hoàng Thị H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị H và anh Triệu Văn K được tự do tìm
hiểu nhau và được hai bên gia đình tổ chức hôn lễ cưới theo phong tục tập quán
của địa phương; đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện B ngày 01 tháng 11
năm 2013. Sau khi kết hôn hai vợ chồng sinh sống tại thôn P, xã T, huyện B,
tỉnh Lạng Sơn. Trong thời gian 13 năm chung sống anh Triệu Văn K không chịu
tu trí làm ăn, san sẻ công việc, không chăm lo cho con cái, mải chơi cờ bạc, thi
thoảng đánh đập chị Hoàng Thị H. Từ tháng 02/2024 âm lịch chị Hoàng Thị H
ra ở riêng tại Bưu điện xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Từ đó đến nay, hai vợ
chồng sống ly thân. Vì mục đích hôn nhân của vợ chồng không đạt được, chị
Hoàng Thị H đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Triệu Văn K.
Về con chung: Có 02 người con chung là Triệu Hoàng N1, sinh ngày
28/2/2011 và Triệu Hoàng Châu A, sinh ngày 29/5/2013. Khi ly hôn chị Hoàng
Thị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục đến khi hai người
con chung trưởng thành đủ 18 tuổi. Không yêu cầu anh Triệu Văn K cấp dưỡng
nuôi con chung.
Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Vợ chồng chị Hoàng Thị H và anh Triệu Văn K có khoản
vay với Ngân hàng C số tiền là 120.000.000 đồng tại hai sổ vay vốn. Khi ly hôn,
chị Hoàng Thị H yêu cầu anh Triệu Văn K phải có trách nhiệm trả số tiền gốc
100.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo sổ vay vốn. Chị Hoàng Thị H chịu
trách nhiệm trả số tiền gốc 20.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo sổ vay
vốn.
Tại phiên tòa, chị Hoàng Thị H đồng ý chia đôi số nợ là trả Ngân hàng
chính sách xã hội mỗi người là 60.000.000 đồng theo sổ vay vốn đã được ký kết
với Ngân hàng.
Về phía bị đơn, anh Triệu Văn K không đến Tòa án tham gia tố tụng. Do
đó, không có văn bản trình bày quan điểm trong hồ sơ vụ án. Tòa án đã tiến
hành xác minh với UBND xã T, huyện B cho biết anh Triệu Văn K sau khi kết
hôn sinh sống tại thôn P, xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Quá trình chung sống
cũng thi thoảng phát sinh mâu thuẫn, việc mâu thuẫn được gia đình hay bên giàn
xếp, không có sự can thiệp hòa giải của chính quyền địa phương. Hiện nay, chị
Hoàng Thị H và các con chung sống riêng tại Bưu điện xã T, huyện B, còn anh
Triệu Văn K sinh sống cùng bố mẹ tại thôn P, xã T, huyện B.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng C có ý kiến: Chị
Hoàng Thị H, anh Triệu Văn K có vay Ngân hàng tính đến ngày 12/4/2024, còn
3
nợ tổng số tiền gốc và lãi là 120.159.781 đồng đối với mã món vay
6600000724983412 ngày 24/02/2023 và mã món vay 6600000726020099 ngày
06/7/2023. Nay Ngân hàng yêu cầu Tòa án làm rõ trách nhiệm trả nợ của hai vợ
chồng khi giải quyết việc ly hôn.
Đại diện gia đình anh Triệu Văn K cho biết việc kết hôn giữa anh Triệu
Văn K và chị Hoàng Thị H hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND
xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi kết hôn hai vợ chồng thi thoảng về thăm
gia đình. Thời điểm phát sinh mâu thuẫn, lý do mâu thuẫn như thế nào thì gia
đình không biết. Hiện nay chị Hoàng Thị H đã ra ở riêng từ ngày 15/02/2024 âm
lịch tại Bưu điện xã T, huyện B cùng con Triệu Hoàng Châu A, còn anh Triệu
Văn K vẫn sinh sống cùng gia đình tại thôn P, xã T, huyện B. Về con chung của
hai vợ chồng chị H và anh K gồm có hai người con chung là Triệu Hoàng N1,
sinh ngày 28/02/2011 và Triệu Hoàng Châu A, sinh ngày 29/5/2013; hiện nay
cháu Triệu Hoàng N1 học lớp 7 tại trường P nội trú huyện B, cháu Triệu Hoàng
Châu A học lớp 5 tại Trường PTDTBT Tiểu học xã T, huyện B. Việc chu cấp
học hành, sinh hoạt hàng ngày do chị H và anh K chăm sóc. Anh Triệu Văn K
không có nghề nghiệp, ở nhà làm ruộng, còn chị Hoàng Thị H làm bưu điện xã
T, huyện B; nay chị Hoàng Thị H yêu cầu được nuôi các con chung, gia đình
không có ý kiến gì. Về tài sản chung, nợ chung thì gia đình không có ý kiến.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã ra Thông báo mở phiên họp kiểm
tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải. Tuy nhiên, bị đơn
anh Triệu Văn K không đến Tòa án tham gia trong quá trình tố tụng và nguyên
đơn chị Hoàng Thị H có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải. Vì vậy,
Tòa án không tiến hành hòa giải được.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Gia phát biểu
ý kiến:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư
ký đã thực hiện đúng, đầy đủ các bước về trình tự, thủ tục tố tụng từ khi nhận
đơn khởi kiện cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án theo quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự.
Từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án
nguyên đơn chị Hoàng Thị H đã chấp hành, thực hiện đúng các quy định tại các
Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự như thực hiện quyền khởi kiện; nộp các
tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu của mình; có mặt tham gia phiên tòa sơ
thẩm. Còn bị đơn anh Triệu Văn K vắng mặt không có lý do.
Về việc giải quyết vụ án: Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án; qua tranh tụng tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly
hôn của chị Hoàng Thị H. Về con chung: Giao hai con chung là Triệu Hoàng
N1, sinh ngày 28/2/2011 và Triệu Hoàng Châu A, sinh ngày 29/5/2013 cho chị
Hoàng Thị H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung
đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Anh Triệu Văn K có quyền đi lại thăm nom
con chung không ai cản trở. Về cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung:
4
Không xem xét giải quyết. Về nợ chung: Buộc chị Hoàng Thị H có trách nhiệm
trả số tiền gốc 40.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo sổ vay vốn của Ngân
hàng chính sách xã hội đối với mã món vay 6600000724983412 ngày
24/02/2023 và 20.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo sổ vay vốn của Ngân
hàng chính sách xã hội đối với mã món vay 6600000726020099 ngày
06/7/2023. Anh Triệu Văn K chịu trách nhiệm trả số tiền gốc 60.000.000 đồng
và tiền lãi phát sinh theo sổ vay vốn của Ngân hàng chính sách xã hội đối với
mã món vay 6600000724983412 ngày 24/02/2023. Về án phí: Chị Hoàng Thị H
được miễn án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn Chị Hoàng
Thị H khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn, tranh chấp nuôi con chung, nợ chung
khi ly hôn. Vì vậy quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung, nợ
chung khi ly hôn” theo khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh
Triệu Văn K trú tại tại thôn P, xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Do đó, căn cứ vào
điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì
thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn.
[2] Về tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập tài liệu
chứng cứ, thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai
chứng cứ và hòa giải, hoãn phiên tòa lần 1 theo quy định pháp luật. Bị đơn anh
Triệu Văn K, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng C triệu tập lần
thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228
của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan là có căn cứ đúng quy định pháp luật.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Việc kết hôn giữa chị Hoàng Thị H và anh
Triệu Văn K là hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã
T, huyện B nên quan hệ hôn nhân giữa chị Hoàng Thị H và anh Triệu Văn K là
hợp pháp. Lời khai của nguyên đơn phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong
hồ sơ vụ án thể hiện hai vợ chồng có mâu thuẫn và chị Hoàng Thị H đã sống ly
thân từ tháng 2/2024 cho đến nay. Như vậy, các đương sự đã thời gian sống ly
thân, không ai quan tâm chăm sóc ai. Có căn cứ xác định tình trạng hôn nhân
giữa chị Hoàng Thị H và anh Triệu Văn K đã trầm trọng, đời sống chung không
thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị Hoàng Thị H yêu
cầu ly hôn với anh Triệu Văn K là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1
Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về con chung: có 02 người con chung là Triệu Hoàng N1, sinh ngày
28/2/2011 và Triệu Hoàng Châu A, sinh ngày 29/5/2013. Chị Hoàng Thị H có
yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng hai con đến tuổi trưởng thành. Cháu Triệu
Hoàng Châu A có nguyện vọng ở với mẹ, cháu Triệu Hoàng N1 có nguyện vọng
5
ở với anh Triệu Văn K. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án anh Triệu
Văn K không có văn bản trình bày quan điểm đối với nội dung này, không yêu
cầu được nuôi con nào, việc giao con Triệu Hoàng N1 cho anh Triệu Văn K sẽ
không đảm bảo. Mặt khác, trong thời gian sống ly thân chị Hoàng Thị H đã
chăm sóc nuôi dạy con phát triển bình thường. Do đó, để đảm bảo cuộc sống
học tập, sinh hoạt cho các con chung thì việc giao các con chung cho chị Hoàng
Thị H trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục đến khi trưởng thành (đủ 18 tuổi)
là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận. Anh Triệu Văn K có
quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn khi có yêu cầu.
[5] Về cấp dưỡng tiền nuôi dưỡng con chung: Quá trình giải quyết vụ án
và tại phiên tòa chị Hoàng Thị H không yêu cầu anh Triệu Văn K cấp dưỡng
tiền nuôi dưỡng con chung. Anh Triệu Văn K không có ý kiến gì với nội dung
này. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét việc cấp dưỡng nuôi con chung.
[6] Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị H trình bày là không có. Trong quá
trình giải quyết vụ án anh Triệu Văn K vắng mặt không có ý kiến gì. Để đảm
bảo quyền lợi ích của đương sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về nợ chung: Xác định hai vợ chồng chị Hoàng Thị H và anh Triệu
Văn K có khoản vay tại Ngân hàng C số tiền là 120.000.000 đồng và tiền lãi
phát sinh theo sổ vay vốn. Xét thấy, đây là nợ chung trong thời kỳ hôn nhân nên
Hội đồng xét xử buộc chị Hoàng Thị H và anh Triệu Văn K cùng có trách nhiệm
trả cho Ngân hàng, cụ thể chị Hoàng Thị H có trách nhiệm trả số tiền gốc
40.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo sổ vay vốn của Ngân hàng đối với mã
món vay 6600000724983412 ngày 24/02/2023 và 20.000.000 đồng và tiền lãi
phát sinh theo sổ vay vốn của Ngân hàng đối với mã món vay
6600000726020099 ngày 06/7/2023. Anh Triệu Văn K chịu trách nhiệm trả số
tiền gốc 60.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo sổ vay vốn của Ngân hàng
đối với mã món vay 6600000724983412 ngày 24/02/2023.
[8] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm đ
khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Hoàng Thị H là người dân tộc thiểu số, cư trú ở
vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí. Vì
vậy, Hội đồng xét xử xét miễn án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[9] Xét thấy ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ
nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[10] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định tại
khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1
Điều 39; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
6
Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 57, 81, 82, 83, 84
của Luật hôn nhân và gia đình;
Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Hoàng Thị H được ly hôn với anh
Triệu Văn K.
2. Về con chung: Giao hai con chung là Triệu Hoàng N1, sinh ngày
28/2/2011 và Triệu Hoàng Châu A, sinh ngày 29/5/2013 cho chị Hoàng Thị H
được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung đến tuổi trưởng
thành (đủ 18 tuổi). Anh Triệu Văn K có quyền đi lại thăm nom con chung không
ai cản trở.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không xem xét giải quyết.
Trường hợp cần thiết hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con
và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
3. Về tài sản chung: Không xem xét giải quyết.
4. Về nợ chung: Buộc chị Hoàng Thị H có trách nhiệm trả số tiền gốc
40.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo sổ vay vốn của Ngân hàng chính sách
xã hội đối với mã món vay 6600000724983412 ngày 24/02/2023 và 20.000.000
đồng và tiền lãi phát sinh theo sổ vay vốn của Ngân hàng chính sách xã hội đối
với mã món vay 6600000726020099 ngày 06/7/2023. Anh Triệu Văn K chịu
trách nhiệm trả số tiền gốc 60.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo sổ vay vốn
của Ngân hàng chính sách xã hội đối với mã món vay 6600000724983412 ngày
24/02/2023.
5. Về án phí: Chị Hoàng Thị H được miễn án phí ly hôn sơ thẩm theo quy
định pháp luật.
6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Hoàng Thị H có mặt có quyền
kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn anh Triệu
Văn K, Ngân hàng C vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15
ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Lạng Sơn;
- VKSND huyện Bình Gia, tỉnh
Lạng Sơn;
- Chi cục THADS huyện Bình Gia,
tỉnh Lạng Sơn;
- UBND xã Thiện Thuật, huyện Bình
Gia;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SỞ THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Dƣơng Thị Hiệt
Tải về
Bản án số 18/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 18/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 14/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Bản án số 175/2024/HNGĐ-PT ngày 12/12/2024 của TAND TP. Hà Nội về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm