Bản án số 172/2022/HS-ST ngày 19/09/2022 của TAND huyện Trảng Bom (TAND tỉnh Đồng Nai) về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án 172/2022/HS-ST Đồng Nai
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án 172/2022/HS-ST Đồng Nai
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 172/2022/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 172/2022/HS-ST ngày 19/09/2022 của TAND huyện Trảng Bom (TAND tỉnh Đồng Nai) về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng |
---|---|
Tội danh: | 304.Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Trảng Bom (TAND tỉnh Đồng Nai) |
Số hiệu: | 172/2022/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 19/09/2022 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Nguyễn Phạm Ngọc L phạm tội tàng trữ trái phép Vũ khí quân dụng |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM TỈNH ĐỒNG NAI ----------------------- Bản án số: 172/2022/HS-ST Ngày: 19- 9 - 2022 |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
|
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM - TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 172/2022/HS-ST NGÀY 19/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG
Ngày 19 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 153/2022/TLST-HS ngày 24 tháng 8 năm 2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 160/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số:188/2022/HSST- QĐ ngảy 12 tháng 09 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Phạm Ngọc L, sinh năm 1995, tại tỉnh Đồng Nai. Hộ khẩu thường trú: Khu phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Nơi cư trú: ấp A, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Giới tính: Nam. Nghề nghiệp: Thợ sửa xe. Trình độ học vấn:10/12. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Thiên chúa. Con ông Nguyễn Vũ M, sinh năm 1973 và bà Phạm Thị Ánh N, sinh năm 1974. Gia đình có 02 anh chị em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình. Bị cáo có vợ tên Đặng Thị Minh T, sinh năm 1991, có 01 con sinh năm 2021. Tiền án: Ngày 21/8/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hành phạt ngày 10/3/2018 và đã chấp hành xong án phí. Tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 19/5/2022, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 37.500.000 đồng (ba mươi bảy triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi tàng trữ trái phép đồ chơi nguy hiểm và tàng trữ trái phép vũ khí thể thao. Ngày 10/3/2022, bị khởi tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và bị giam giữ trong vụ án đó từ ngày 03/03/2022(có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Phạm Ngọc L là người nghiện chất ma túy. Vào khoảng tháng 02/2019, L cùng người tên P (không rõ họ tên, địa chỉ) đi đến khu vực cầu Rạch Sỏi (giáp ranh phường Tân Hạnh và phường Hóa An, thành phố Biên Hòa) để bắt cá. Khi đang đi tìm bắt thì L nhặt được 08 viên đạn, (trong đó có 04 viên đạn là vũ khí quân dụng và 04 viên đạn là đạn thể thao, không phải là vũ khí quân dụng), nằm cạnh bờ rạch với nhiều loại, kích thước khác nhau, bị gỉ sét. L không cho P biết mà cất vào túi quần và mang số đạn trên về nhà đánh bóng để trưng bày. Sau đó, do sợ bị phát hiện nên L đã gói 08 viên đạn trong một túi vải rồi cất giấu trên la phông trần nhà trong phòng bếp tại ấp 5, xã Sông Trầu, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.
Đến tháng 8 năm 2021, thông qua mạng internet (không rõ trang web), L đã đặt mua 01 khẩu súng màu đen, bắn đạn bi với giá 1.500.000 đồng, (khẩu súng là đồ chơi nguy hiểm, không phải là vũ khí quân dụng, không có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng), việc giao, nhận tiền, hàng bằng hình thức thu hộ (không rõ bên vận chuyển). Sau đó, L đã gói chung khẩu súng trong túi vải cùng với 08 viên đạn mang cất giấu trên la phông trần nhà trong phòng bếp.
Ngày 27/02/2022, người tên Phương (không rõ họ tên địa chỉ) ở Thành phố Hồ Chí Minh cho L 04 gói ma túy loại Methamphetamine khối lượng 1,809 gam, L mang ma túy về nhà cấu giấu để sử dụng. Khoảng 14 giờ 15 phút ngày 03/3/2022, Công an xã Sông Trầu, huyện Trảng Bom bắt quả tang L có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và thu giữ 01 khẩu súng là đồ chơi nguy hiểm, 04 viên đạn là đạn thể thao và 04 viên đạn là vũ khí quân dụng tại ấp 5, xã Sông Trầu, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, đồng thời chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom thụ lý theo thẩm quyền.
Tại bản kết luận giám định số 2212/KL-KTHS ngày 20/12/2021 của Phân viện khoa học hình sự - Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:
- Khẩu súng gửi giám định là đồ chơi nguy hiểm, không phải là vũ khí quân dụng, không có tình năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng.
- 04 (bốn) viên đạn cỡ (5,6 x 15) mm, ký hiệu C là đạn thể thao, không phải là vũ khí quân dụng.
- 01 (một) viên đạn cỡ (12,7 x 108) mm, ký hiệu là 188 83 và 03 (ba) viên đạn cỡ (7,62 x 51) mm, ký hiệu RA 70 là đạn quân dụng.
Tại bản Cáo trạng số 3497/CT-VKS-TB ngày 10/8/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom đã truy tố Nguyễn Phạm Ngọc L về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 của Bộ luật hình sự 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Phạm Ngọc L mức án từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.
- Về vật chứng:
+ Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu chuyển Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai quản lý 04 viên đạn là đạn quân dụng.
+ Đối với khẩu sung và 04 viên đạn không phải là vũ khí quân dụng Công an huyện Trảng Bom đã ra quyết định xử lý vật chứng trong vụ án khác.
- Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
- Đối với người P (không rõ họ tên, địa chỉ) là người đi cùng L khi L nhặt 08 viên đạn, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Đồng Nai tiếp tục xác minh làm rõ sẽ đề nghị xử lý sau.
- Đối với bà Phạm Thị Ánh N (mẹ ruột của L), sinh năm 1974, trú tại:
738/68/32 khu phố 8, phường Tam Hiệp, thành phố Hồ Chí Minh và chị Đặng Thị Minh Th (vợ L), sinh năm 1991, trú tại: ở trọ tại đường Dương Bạch Mai, phường Tân Mai, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai không biết việc L tàng trữ 04 viên đạn quân dụng nên Cơ quan An ninh điều tra không xử lý.
- Đối với nguồn gốc 04 viên đạn thu được là đạn quân dụng. Ngày 27/6/2022, Cơ quan An ninh điều tra có công văn số 220 đề nghị Cục Cảnh sát QLHC về TTXH, Cục Trang bị và Kho vận – Bộ công an, Cục Quân ký – Tổng cục Kỹ thuật Bộ Quốc phuòng rà soát, cung cấp thông tin về 04 viên đạn là đạn quân dụng nêu trên. Kết quả, Cục Quân khí – Tổng Cục kỹ thuật, Bộ Quốc phòng có văn bản số 3220/QK-ĐD ngày 15/7/2022 cung cấp thông tin: “01 (một) viên đạn cỡ (12,7 x 108)mm, ký hiệu 188 83 do nhà máy số 188 (Liên Xô cũ) sản xuất năm 1983, không rõ lô sản xuất. Loại đạn này hiện có tại nhiều đơn vị trong toàn quân và có nhiều lô sản xuất khác nhau. 03 (ba) viên đạn cỡ (7,62 x 51)mm, ký hiệu RA 70, do nhà máy RA (Remington Arms Company, Mỹ) sản xuất năm 1970, không rõ lô sản xuất. Loại đạn này hiện có tại các đơn vi trên địa bàn Quân khu 1 và từ Quân khu 4 trở vào phía Nam với nhiều lô sản xuất khác nhau. Với các loại đạn trên, trong một năm, một nhà máy sản xuất nhiều lô đạn khác nhau, mỗi lô có số lượng hàng trăm nghìn viên trở lên (các viên đạn có hình dạng, kích thước, kí hiệu giống hệt nhau)”. Ngày 30/7/2022, Cơ quan An ninh điều tra đã có văn bản số 270 đề nghị Cục Quân khí – Tổng Cục kỹ thuật Bộ Quốc phòng kiểm tra, rà soát để xử lý theo quy định về công tác quan lý, sử dụng đạn quân dụng có đặc điểm nêu trên.
- Đối với hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của Nguyễn Phạm Ngọc L. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện trảng Bom đã tách ra xử lý trong một vụ án khác.
Bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom và lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bom, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai nhận của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vào khoảng tháng 02/2019, tại ấp 5, xã Sông Trầu, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Phạm Ngọc L đã có hành vi tàng trữ 04 viên đạn là vũ khí quân dụng. Đến ngày 27/02/2022 hành vi tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng của L bị Công an xã Sông Trầu, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai phát hiện bắt quả tang. Hành vi nêu trên của Nguyễn Phạm Ngọc L là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến sự quản lý của Nhà nước về vũ khí quân dụng, là nguyên nhân gây ra những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người dân và ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương và đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) [3] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:
[3.1] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.
[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[3.3] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Đây là tình tiết tăng nặng “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
[4] Về vật chứng:
[4.1] Tịch thu chuyển Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai quản lý 04 viên đạn là đạn quân dụng.
[4.2] Đối với khẩu sung và 04 viên đạn không phải là vũ khí quân dụng Công an huyện Trảng Bom đã ra quyết định xử lý vật chứng trong vụ án khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[5] Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Đối với người tên P (không rõ họ tên, địa chỉ) là người đi cùng L khi L nhặt 08 viên đạn, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Đồng Nai tiếp tục xác minh làm rõ sẽ đề nghị xử lý sau nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
- Đối với bà Phạm Thị Ánh N (mẹ ruột của L), sinh năm 1974, trú tại: 738/68/32 khu phố 8, phường Tam Hiệp, thành phố Hồ Chí Minh và chị Đặng Thị Minh Th (vợ L), sinh năm 1991, trú tại: ở trọ tại đường Dương Bạch Mai, phường Tân Mai, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai không biết việc L tàng trữ 04 viên đạn quân dụng nên Cơ quan An ninh điều tra không xử lý nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
- Đối với nguồn gốc 04 viên đạn thu được là đạn quân dụng. Ngày 27/6/2022, Cơ quan An ninh điều tra có công văn số 220 đề nghị Cục Cảnh sát QLHC về TTXH, Cục Trang bị và Kho vận – Bộ công an, Cục Quân ký – Tổng cục Kỹ thuật Bộ Quốc phuòng rà soát, cung cấp thông tin về 04 viên đạn là đạn quân dụng nêu trên. Kết quả, Cục Quân khí – Tổng Cục kỹ thuật, Bộ Quốc phòng có văn bản số 3220/QK-ĐD ngày 15/7/2022 cung cấp thông tin: “01 (một) viên đạn cỡ (12,7 x 108)mm, ký hiệu 188 83 do nhà máy số 188 (Liên Xô cũ) sản xuất năm 1983, không rõ lô sản xuất. Loại đạn này hiện có tại nhiều đơn vị trong tuoàn quân và có nhiều lô sản xuất khác nhau. 03 (ba) viên đạn cỡ (7,62 x 51)mm, ký hiệu RA 70, do nhà máy RA (Remington Arms Company, Mỹ) sản xuất năm 1970, không rõ lô sản xuất. Loại đạn này hiện có tại các đơn vi trên địa bàn Quân khu 1 và từ Quân khu 4 trở vào phía Nam với nhiều lô sản xuất khác nhau. Với các loại đạn trên, trong một năm, một nhà máy sản xuất nhiều lô đạn khác nhau, mỗi lô có số lượng hàng trăm nghìn viên trở lên (các viên đạn có hình dạng, kích thước, kí hiệu giống hệt nhau)”. Ngày 30/7/2022, Cơ quan An ninh điều tra đã có văn bản số 270 đề nghị Cục Quân khí – Tổng Cục kỹ thuật Bộ Quốc phòng kiểm tra, rà soát để xử lý theo quy định về công tác quan lý, sử dụng đạn quân dụng có đặc điểm nêu trên.
- Đối với hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của Nguyễn Phạm Ngọc L. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện trảng Bom đã tách ra xử lý trong một vụ án khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[7] Về thời điểm bắt đầu tính thời hạn tù của bị cáo Nguyễn Phạm Ngọc L trong vụ án này: Hiện tại bị cáo Nguyễn Phạm Ngọc L đang bị giam trong vụ án khác. Vì vậy, thời hạn tù của bị cáo trong vụ án này được tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành hình phạt tù của bản án này. Sau này, khi tiến hành tổng hợp hình phạt của bản án này với bản án khác, Tòa án có thẩm quyền sẽ xác định lại thời điểm chấp hành hình phạt chung theo quy định của pháp luật.
[8] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phạm Ngọc L phạm tội “Tàng trữ trái phép Vũ khí quân dụng”.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Phạm Ngọc L 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện hoặc bị áp giải để chấp hành hình phạt tù của bản án này.
2. Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).
Tịch thu giao Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai xử lý 04 viên đạn là đạn quân dụng theo quy định của pháp luật.
(Toàn bộ số vật chứng nêu trên được bàn giao theo lệnh nhập kho ngày 16/8/2022 của Phòng kỹ thuật Ban chỉ huy quan sự tỉnh Đồng Nai).
3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Phạm Ngọc L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: - Bị cáo; - VKSND huyện; - Công an huyện; - Chi cục THADS huyện; - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai. - UBND cấp xã nơi b/c cư trú; - Sở Tư pháp; - TAND tỉnh; - Lưu: hồ sơ vụ án. |
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thành Tâm |
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!