Bản án số 171/2023/HS-ST ngày 15/06/2023 của TAND TP. Dĩ An, tỉnh Bình Dương về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 171/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 171/2023/HS-ST ngày 15/06/2023 của TAND TP. Dĩ An, tỉnh Bình Dương về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Dĩ An (TAND tỉnh Bình Dương)
Số hiệu: 171/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 15/06/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 171/2023/HS-ST NGÀY 15/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 6 năm 2023 tại điểm cầu Trung tâm Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và điểm cầu thành phần nhà tạm giữ Công an thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 155/2023/TLST-HS ngày 05 tháng 5 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 189/2023/QĐXX-HS ngày 05/6/2023 đối với bị cáo:

Lê Anh Ng, sinh năm 1998 tại tỉnh Bạc Liêu; thường trú: Ấp A, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 10/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Lê Ngọc U, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1969; bị cáo có 01 em ruột sinh năm 2002, bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 27/7/2018, Lê Anh Ng bị Toà án nhân dân thị xã Dĩ An (nay là thành phố Dĩ An), tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm tù giam, về tội “Vận chuyển trái phép chất ma tuý” theo bản án số 193/2018/HS-ST ngày 27/7/2018, chấp hành xong ngày 19/12/2019, đã nộp án phí hình sự sơ thẩm theo biên lai thu số 14398 ngày 15/10/2018; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/01/2023 đến nay, có mặt.

- Người chứng kiến: Hồ Văn Th, vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 00 Pt sáng ngày 14/01/2023, bị cáo Ng đi bộ đến khu vực ngã tư giao nhau giữa đường Quốc lộ 1K và đường Mỹ Phước Tân Vạn thuộc phường Bình An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương để mua ma tuý. Đến nơi, Ng gặp một người thanh niên tên P (không rõ lai lịch), Ng hỏi mua 300.000 đồng ma tuý, P đồng ý bán và giao cho Ng 01 gói nylon hàn kín, bên trong chứa tinh thể màu trắng. Sau khi mua được ma tuý, Ng đem về phòng trọ số 02, nhà trọ 1222/8/6 tổ 8, khu phố Châu Thới, phường Bình An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương cất giấu trong hộp nhựa. Đến khoảng 15 giờ 30 Pt cùng ngày, lực lượng Công an phường Bình An đến kiểm tra hành chính phòng trọ của Lê Anh Ng, Ng đã tự nguyện lấy gói nylon chứa ma tuý giao nộp cho lực lượng Công an và khai nhận chất màu trắng là ma tuý đá. Công an phường Bình An tiến hành lập biên bản người phạm tội ra đầu thú, thu giữ vật chứng và đưa Lê Anh Ng về trụ sở lập hồ sơ xử lý theo quy định.

Tại Kết luận giám định số 48/ MT-PC09 ngày 18/01/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu chất màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng: 0,1333 gam - Vật chứng thu giữ:

+ 01 bì thư được niêm phong ghi số 48/PC09, khối lượng mẫu vật niêm phong: 0,0523 gam chất ma tuý còn lại sau giám định.

Tại cáo trạng số 179/CT – VKS – DA ngày 04 tháng 5 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lê Anh Ng về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ Ng quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Anh Ng mức án từ 15 (mười lăm) đến 18 (mười tám) tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

+ 01 bì thư được niêm phong ghi số 48/PC09, khối lượng mẫu vật niêm phong:

0,0523 gam chất ma tuý còn lại sau giám định là vật nhà nước cấm tàng trữ lưu hành, cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Trách nhiệm dân sự: Không.

- Đối với người đàn ông tên P đã bán ma tuý cho bị cáo Ng chưa xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rỏ xử lý sau.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Anh Ng không tranh luận.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: bị cáo đã biết rõ hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo, xin Hội đồng xét xử xem xét xử đúng người, đúng tội để bị cáo sớm được về với gia đình, phụ giúp gia đình và trở thành người công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 15 giờ 30 Pt ngày 14/01/2023, khi lực lượng Công an phường Bình An kiểm tra hành chính phòng trọ số 02, nhà trọ F tổ X, khu phố Châu Thới, phường Bình An, thành phố Dĩ An, do bị cáo Lê Anh Ng sinh sống thì Lê Anh Ng đã giao nộp ma túy và khai nhận hành vi tàng trữ ma túy của mình. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của chính bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú, Biên bản xác định hiện trường, Sơ đồ hiện trường, Kết luận giám định…. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 179/CT – VKS – DA ngày 04 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đầu thú đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Hội đồng sẽ xem xét áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[6] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy và là người nghiện ma túy [7] Vật chứng: 01 bì thư được niêm phong ghi số 48/PC09, khối lượng mẫu vật niêm phong: 0,0523 gam ma tuý còn lại sau giám định là vật nhà nước cấm tàng trữ lưu hành, cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

[8] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[9] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử và quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[10] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

1. Tuyên bố bị cáo Lê Anh Ng phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Lê Anh Ng 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/01/2023.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư được niêm phong ghi số 48/PC09, khối lượng mẫu vật niêm phong: 0,0523 gam chất ma tuý còn lại sau giám định.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/5/2023) 3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Lê Anh Ng phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất