Bản án số 159/2025/DS-PT ngày 30/05/2025 của TAND tỉnh An Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 159/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 159/2025/DS-PT ngày 30/05/2025 của TAND tỉnh An Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh An Giang
Số hiệu: 159/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH KG
Bản án số: 159/2025/DS-PT
Ngày 30-5-2025
V/v “tranh chấp hợp đồng vay
tài sản.”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:Ông Đoàn Văn Thậm
Các Thẩm phán: Ngô Thị Minh Trang
Ông Võ Minh Triều
- Thư ký phiên tòa: Bà Quan Thanh Thảo Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
KG.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh KG tham gia phiên tòa:
ông Cao Phương Bình - Kiểm t viên.
Trong các ngày 09 tháng 5 năm 2025 và ngày 30 tháng 5 năm 2025, tại trụ
sở Tòa án nhân dân tỉnh KG xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ s
46/2025/TLPT-DS ngày 24 tháng 02 năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay
tài sản”
Do Bản án dân sự thẩm số 146/2024/DS-ST ngày 31 tháng 10 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh KG bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 112/2025/QĐPT-DS
ngày 27 tháng 3 năm 2025 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Đặng Thị S, sinh năm 1971 (có mặt)
Địa chỉ: khu phố Đ, thị trấn H, huyện H, tỉnh KG (có mặt)
Bị đơn Ông Lăng Văn G, sinh năm 1985 (có mặt ngày 09/5/2025 vắng mặt ngày
30/5/2025).
Địa chỉ: khu phố M, thị trấn S, huyện H, tỉnh KG
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Bùi Hảo T - Luật của Văn
phòng L thuộc đoàn luật sư tỉnh K (có mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Phạm Thị T1 (Chết)
Địa chỉ: ấp S, xã S, huyện H, tỉnh KG.
Người thừa kế quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng của Phạm Thị T1:
1. Ông Nguyễn Trung T2, sinh năm 1952 (chồng T1-vắng mặt)
Địa chỉ: ấp S, xã S, huyện H, tỉnh KG (có đơn xin vắng mặt)
2. Chị Nguyễn Thị Thanh T3, sinh năm 1985 (con bà T1-vắng mặt)
Địa chỉ: số D đường N, phường V, thành phố R, tỉnh KG (vắng mặt)
3. Chị Nguyễn Thị Ngọc T4, sinh năm 1987 (con bà T1-vắng mặt)
Địa chỉ: ấp V, xã S, huyện H, tỉnh KG (vắng mặt)
4. Anh Nguyễn Trung T5, sinh năm 1990 (con bà T1-vắng mặt)
Địa chỉ: ấp S, xã S, huyện H, tỉnh KG
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Nguyên đơn Đặng Thị S trình bày:
Từ chỗ quen biết và tin tưởng nhau nên vào ngày 02/12/2016 (dương lịch)
ông G có nhờ vay hộ 600.000.000 đồng đlàm phân bón thuốc trừ sâu, lãi suất
2%/ tháng, thỏa thuận thời hạn trả 01 năm; ngày 02 tháng 12 năm 2017 đến hạn
trả tiền. Ông G có nói là cầm cho bà một căn nhà ở cầu B, đất mé sông không có
bằng khoán đề làm tin, nhưng sau đó ông G không có đưa nhà cho bà. Trong thời
gian vay tiền cho đến nay ông G không đóng lãi cho bà, điện thoại yêu cầu ông
G thanh toán nợ, ông G cũng không bắt máy. Đến ngày 25 tháng 02 năm 2022,
ông G điện cho bà thông báo bán nhà và kêu bà lên nhà để trả tiền, bà cũng đã
lên nhà nhưng ông G lại bịa lý do người mua nhà chưa mang tiền lên trả.
Nay làm đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết buộc ông Lăng n G
phải trả toàn bộ cho bà số tiền gốc là 600.000.000 đồng (Sáu trăm triệu đồng) và
tiền lãi tính từ ngày 02/12/2016 đến nay là 60 tháng với lãi suất là 1%/tháng, tổng
cộng cả gốc và lãi ông G phải trả cho bà là 960.000.000 đồng.
- Bị đơn ông Lăng Văn G trình bày như sau:
Vào tháng 12 năm 2016 S năn nỉ ông cho S làm hùn phân bón
thuốc bảo vệ thực vật, S vay mượn tiền của Phạm Thị T1 cho ông làm
ăn. Lần 1 cộng dồn số tiền 600.000.000 đồng, ông có ký nhận tiền của S, lần 2
cộng dồn 620.000.000 đồng, tổng cộng 1.220.000.000 đồng. Tiền lợi nhuận thì
chia đôi với S, S thì lại chia đôi với T1. Sau khi đi làm một thời gian ông
thấy S không trung thực nên ông nói với bà T1 không làm việc chung với S
nữa. Phần tiền bà S vay mượn với T1 chuyển công nqua ông vào ngày
15/4/2017, ông đồng ý lãi suất hàng tháng đóng cho bà T1 1,5%/tháng theo thỏa
thuận. Số tiền trên không còn liên quan đến S nữa, ông có đnghị bà S giấy
nhận nợ bà S nói S rồi. Do đó, nay S yêu cầu ông thanh toán số tiền
còn nợ gốc 600.000.000 đồng, lãi 360.000.000 đồng ông không đồng ý. Ngoài ra,
ông cho rằng bà S ghi không thêm dưới dòng chữ biên nhận ông cố đất cô nhà ở
B, sự việc này là không có.
Tại phiên tòa, ông xác định chữ chữ viết tên Lăng Văn Gtrong biên
nhận ngày 02/12/2016 là chữ ký và chữ viết tên do ông ký và viết, còn dòng chữ
“v/v cầm cđất + nhà của L Bdo S tự ý ghi thêm sau khi ông đã biên
nhận. Tuy nhiên, ông không yêu cầu giám định đối với dòng chữ “v/v cầm cố đất
+ nhà ở của L Bbiên nhận ngày 02/12/2016 và ông cũng không yêu có yêu cầu
gì đối với bả Son, trường hợp Tòa án buộc ông trả nợ cho bà S thì ông sẽ kêu
T1 khởi kiện bả Son trong vụ án khác.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Phạm Thị T1 trình bày:
Vào tháng 12 năm 2016, bà S có xuống nhà bà bàn với bà việc làm chung,
phân thuốc với ông G, tiền kinh doanh và lãi chia đôi, ông G một nửa, bà với
S một nửa. Do hai người này không vốn nên đứng vay vốn, mức lãi suất
mỗi tháng là 1% hoặc 1,16% hoặc 1,5%. Hai bên cam kết lãi trả hàng tháng, gốc
trả dần. Bà có nói với bà S bà không biết ông G là ai, chỉ biết bà S nên bà S phải
vay nợ với bà, nếu đưa cho ông G tbắt ông G ý nhận nmang giấy nợ về
cho bà, bà S thống nhất với yêu cầu của bà. Bà không có thời gian nên lo vốn, bà
S ông G thì đi thị trường nhưng suốt thời gian làm chung khoảng 4 tháng
không nhận được tiền lãi cũng như tiền chia từ khoản kinh doanh chung. Bà thấy
không ổn vì số tiền bà giao cho bà S nhiều lần tổng cộng 1.220.000.000 đồng, bà
S biên nhận vay nợ. không muốn làm ăn chung nữa nên kêu S phải
thánh toán với ông G để thu lãi và gốc trả lại số tiền bà đã đứng vay.
Sau đó, ông G S lên nhà bà S để làm sổ sách công nợ mấy m
sau bà S xuống nhà giao lại số nợ cho ông G trả. Ông G đi gom một thời gian
không được nên nói với bà cho vay tiếp, đã bắt ông G giấy nợ vào ngày
15/4/2017, ông G phải trả gốc và lãi cho bà. Số nợ này không liên quan gì đến bà
S nữa, còn việc giữa S ông G trước và sau khi làm ăn chung có nợ nần
với nhau không thì bà không biết.
Bà xác định trong khoảng thời gian làm chung từ tháng 12/2016 đến tháng
4/2017 tổng stiền đã đưa là 1.220.000.000 đồng, S là người đã nhận nợ
với bà, bà S không đưa giấy nhận nợ ông G đã ký. Đến ngày 15/4/2017, số nợ
1.220.000.000 đồng đã chuyển sang cho ông G và ông G đã ký giấy nhận nợ.
Đến nay ông G vẫn chưa trả nợ gốc và lãi cho bà, nếu sau này ông G không thanh
toán thì sẽ khởi kiện ông G trong vụ án khác, không yêu cầu độc lập trong
vụ án này.
- ông Nguyễn Trung T2 trình bày:
Việc vay mượn giữa S ông G như thế nào thì ông không biết; còn
khoản nợ S ông G nợ vợ chồng ông thì ông sẽ khởi kiện vụ kiện khác. Vì
vậy, ông đề nghị Toà án giải quyết vắng mặt ông.
Người kế thừa kế quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng của bà Phạm Thị T1
chị Nguyễn Thị Thanh T3, Nguyễn Thị Ngọc T4 anh Nguyễn Trung T5:
Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các thông báo thụ lý vụ
án, các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng
cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng
chị T3, chị T4 anh T5 đều vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến
của anh chị đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp của bị đơn ông Bùi Hảo T:
Theo biên nhận ngày 02/12/2016 dương lịch, Đặng Thị S yêu cầu ông
Lăng Văn G phải trả số tiền vay là 600.000.000 đồng và lãi suất. Tuy nhiên, theo
ông G cho rằng số tiền là 600.000.000 đồng đã được chuyển sang công nợ của
T1 (do S, T1 và ông G hùn nhau làm kinh doanh) trong tổng số nợ
1.200.000.000 đồng ông G đã nhận nợ với T1; lời khai của ông G hoàn toàn
phù hợp các biên nhận bà S đã với bà T1. Hơn nữa, S cho rằng đây
số tiền vay nhưng biên nhận (BL 17) không ghi lãi suất; đồng thời S cho
rằng đưa tiền cho Trọng A nhưng ông G không biết Trọng A ai. Khoản nợ
bà S yêu cầu năm 2016 đến năm 2022 S mới khởi kiện, căn cứ Điều 429
BLDS thì thời hiệu khởi kiện hợp đồng không còn. Do đó đề nghị Hội đồng xét
xử bác yêu cầu khởi kiện của Đặng Thị S.
Tại Bản án dân sự thẩm số 146/2024/DS-ST ngày 31/10/2024 Tòa án
nhân dân huyện đã quyết định:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đặng Thị S.
Buộc ông Lăng Văn G phải trả cho Đặng Thị S s tiền vay gốc
600.000.000 đồng (Sáu trăm triệu đồng) và tiền lãi 360.000.000 đồng (Ba trăm
sáu mươi triệu đồng), tổng cộng 960.000.000 đồng (Chín trăm sáu mươi triệu
đồng).
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các
khoản tiền phải trả cho người được thì hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất
cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hảnh án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468
Bộ luật Dân sự năm 2015.
Ngoài ra, án thẩm còn tuyên về án phí thẩm báo quyền kháng cáo của
đương sự theo quy định pháp luật.
Sau khi t xử sơ thẩm ngày 13 tháng 11 năm 2024 bị đơn ông Lăng Văn G có
đơn kháng cáo với nội dung: Yêu cầu không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà
Đặng Thị S, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị S.
Ngày 15 tháng 11 năm 2024 Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh KG có Quyết
định kháng nghị số 05/QĐ-VKS-DS đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh KG xét xử phúc
thẩm theo hướng sửa bản án dân sự thẩm số 146/2024/DSST ngày 31 tháng 10
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện theo hướng không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn Đặng Thị S.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Trung T2, ông Nguyễn
Trung T5, bà Nguyễn Thị Thanh T3, Nguyễn Thị Ngọc T4 không kháng
cáo và yêu cầu trong vụ án này.
Tại phiên tòa hôm nay Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cũng
đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Lăng Văn G trình bày: Giữ nguyên
kháng cáo yêu cầu HĐXX phúc thẩm xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của
nguyên đơn với do: Bị đơn đã chốt chuyển công nợ trên qua Phạm Thị
T1 xong nguyên đơn S hứa xé biên nhận nợ trên nhưng đến nay S không
xé; Đối với nguyên đơn S thì cho rằng biên nhận nợ ngày 01/12/2016 nợ
riêng của bà S và ông G không liên quan gì với số tiền của bà T1 hùn vốn với bà
S và ông G. Hơn nữa tại bản tự khai ngày 25/5/2022 (bút lục số 28) của bà Phạm
Thị T1 trình bày: o tháng 12 năm 2016 bà S xuống nbàn với làm
chung phân thuốc với ông G: đưa cho S nhiều lần bằng 1.200.000.000
đồng (một tỷ hai trăm triệu đồng) sau đó chốt nợ ông G nghĩa vụ trả cho bà số
nợ trên. Còn giữa S ông G trước sau khi m chung nợ nần nhau thì
bà không biết cụ thể vì không liên quan gì đến bà. Thể hiện số nợ ông G nợ bà S
theo biên nhận nợ ngày 02/12/2016 T1 không biết rõ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh KG phát biểu quan điểm:
- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên
tòa và việc chấp hành pháp luật của các bên đương sự từ khi thụ vụ án đến trước
khi Hội đồng xét xử vào nghị án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự.
- Về hướng giải quyết vụ án:
Đại diện Viện kiểm sát cho rằng tại phiên tòa phúc thẩm ngày 15/5/2023 hủy bản
án thẩm đã nhận định lời trình bày của ông G cho rằng S chuyển tiền trực
tiếp vào tài khoản của nhà máy P; tại cấp phúc thẩm lần hai ông G yêu cầu hoãn
phiên tòa để cho ông G cung cấp số tài khoản của nhà máy phân bón nhưng đến
nay ông G vẫn không cung cấp. Hơn nữa, lời trình bày của ông G lúc thì tiền cộng
dồn hùn làm ăn với S, T1; lúc thì số tiền chuyển vào tài khoản nhà máy
nhưng ông G không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh số
tiền 600.000.000 đồng trong biên nhận nợ ngày 02/12/2016 liên quan đến số
tiền 1.200.000.000 đồng. Ngoài ra, ông G kháng cáo yêu cầu áp dụng Điều 429
BLDS cho rằng thời hiệu khởi kiện hợp đồng không còn, nhưng tại cấp thẩm
ông G không yêu cầu phản tố yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện của hp
đồng nên cấp sơ thẩm không xem xét áp dụng thời hiệu khởi kiện là phù hợp.
Đối với kháng nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện ngày
25/8/2025 đã ban hành Quyết định số 239/-VKS-DS rút toàn bộ kháng nghị
nên đình chỉ. Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 308 BLTTDS xử giữ nguyên
bản án sơ thẩm số 146/2024/DS-ST ngày 31/10/2024 của Tòa án nhân dân huyện
, theo hướng không chấp nhận nội dung kháng cáo của ông G, đình chỉ xem
xét kháng nghị. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ phù hợp với quy định
pháp luật nên HĐXX ghi nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Người kế thừa quyền nghĩa vụ tham gia tố tụng
của Phạm Thị T1 ông Nguyễn Trung T2, chị Nguyễn Thị Thanh T3, chị
Nguyễn Thị Ngọc T4 anh Nguyễn Trung T5 đã được triệu tập hợp lệ đến lần
thứ 2 những vẫn vắng mặt. Căn cứ vào khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự,
Tòa án nhân dân tỉnh KG t xử vắng mặt.
[2] Về số nợ vay: Tại phiên tòa hôm nay đại diện theo ủy quyền của bị đơn cũng
xác nhận biên nhận nợ trên là của ông G ký nhận nợ với bà S nhưng cho rằng đã
chốt nợ với T1 tất cả các khoản nợ bằng 1.200.000.000 đồng theo biên nhận
ngày 15/4/2017. Nhưng ông G không chứng minh được việc ông chốt nợ theo
biên nhận ngày 02/12/2016 giữa ông S qua T1 nên việc kháng o của
ông G là không có căn cứ để xem xét.
[3] Đối với những người liên quan ông Nguyễn Trung T2, chị Nguyễn Thị Thanh
T3, chị Nguyễn Thị Ngọc T4 và anh Nguyễn Trung T5 đơn xin vắng mặt
không có yêu cầu giải quyết trong vụ án này nên HĐXX không xem xét.
Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát rút kháng nghị số 239/-VKS-
DS ngày 28 tháng 5 năm 2025 xét thấy việc rút kháng nghị trên phù hợp với
quy định của pháp luật nên HĐXX chấp nhận. Xét đề nghị của Viện kiểm sát tại
phiên tòa hôm nay căn cứ phù hợp với quy định pháp luật nên HĐXX ghi
nhận.
[4] Về án phí:
Án phí dân sự sơ thẩm:
Buộc ông Lăng Văn G phải chịu án phí n sự thẩm giá ngạch 40.800.000
đồng (Bốn mươi triệu tám trăm nghìn đồng).
Hoàn trả cho Đặng Thị S số tiền tạm ứng án phí đã nộp 20.400.000 đồng
(Hai mươi triệu bốn trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0007804 ngày
07/04/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện , tỉnh KG.
Án phí phúc thẩm:
Do kháng cáo của ông Lăng Văn G không được tòa chấp nhận nên buộc
ông Lăng Văn G phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Ông Lăng Văn G đã nộp số
tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai
thu tiền tạm ứng án phí số 0004184 ngày 11 tháng 11 năm 2022 của Chi cục thi
hành án dân sự huyện , tỉnh KG. Ông G đã thực hiện xong.
Từ những nhận định trên xét thấy cấp thẩm xét xử đúng theo qui định của
pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bluật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 466, Điều
468 của Bộ luật Dân s năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận nội dung kháng cáo của ông Lăng Văn G.
Giữ nguyên bản án dân sthẩm số 146/2024/DS-ST ngày 31 tháng 10
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện , tỉnh KG. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn đối với yêu cầu buộc ông Lăng Văn G phải trả toàn bộ số tiền
gốc 600.000.000 đồng (sáu trăm triệu đồng) tiền i là 360.000.000 đồng (Ba
trăm sáu mươi triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong khoản tiền trên, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 468 Bộ luật dân sự.
2. Về án phí:
Án phí dân sự sơ thẩm:
Buộc ông Lăng Văn G phải chịu án phí dân sự thẩm giá ngạch [36.000.000
đồng + (960.000.000 đồng 800.000.000 đồng) x 3%] = 40.800.000 đồng (Bốn
mươi triệu tám trăm nghìn đồng).
Hoàn trả cho Đặng Thị S số tiền tạm ứng án phí đã nộp 20.400.000 đồng
(Hai mươi triệu bốn trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0007804 ngày
07/04/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện , tỉnh KG.
Án phí phúc thẩm:
Do kháng cáo của ông Lăng Văn G không được tòa chấp nhận nên buộc
ông Lăng Văn G phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Ông Lăng Văn G đã nộp số
tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai
thu tiền tạm ứng án phí số 0004184 ngày 11 tháng 11 năm 2022 của Chi cục thi
hành án dân sự huyện , tỉnh KG. Ông G đã thực hiện xong.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi
hành án dân sự sửa đổi, bổ sung; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh KG;
- TAND huyện ;
- Chi cục THADS huyện ;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨMTHẨM
PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đoàn Văn Thậm
Tải về
Bản án số 159/2025/DS-PT Bản án số 159/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 159/2025/DS-PT Bản án số 159/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất