Bản án số 14/2020/HS-ST ngày 12/02/2020 của TAND Q. Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh về tội trộm cắp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 14/2020/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 14/2020/HS-ST ngày 12/02/2020 của TAND Q. Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh về tội trộm cắp tài sản
Tội danh: 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Q. Gò Vấp (TAND TP. Hồ Chí Minh)
Số hiệu: 14/2020/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/02/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 14/2020/HS-ST NGÀY 12/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 02 năm 2020 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 13/2020/HSST ngày 21/01/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2020/QĐXXST-HS ngày 30/01/2020 đối với bị cáo:

Mai Quang L; Giới tính: Nam; sinh năm 1975 tại tỉnh Quảng Trị; Hộ khẩu thường trú: đường số X, phường Y, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: không; Con ông Mai Quang T và bà Hà Thị C; Hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ, con; Tiền sự: không; Tiền án: 02 - Ngày 19.11.2015 Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội cướp giật tài sản; Ngày 25.5.2018 Tòa án nhân dân quận Gò Vấp quận Gò Vấp xử phạt 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 09/10/2019 (có mặt).

Bị hại: Ông Lê Văn C; địa chỉ: Lê Văn Thọ, Phường 14, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt):

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 15 ngày 09/10/2019, Mai Quang L điều khiển xe gắn máy biển số 70K2-34xx đi từ Quận 12 về quận Gò Vấp. Khi đi ngang bãi đất trống, địa chỉ 237/33/139 Phạm Văn Chiêu, phường 14, quận Gò Vấp thì L nhìn thấy có để nhiều khung giàn giáo bằng kim loại nhưng không có người trông coi nên L nảy sinh ý định lấy trộm đem bán lấy tiền tiêu xài. L chạy xe gắn máy đến lề đường đối diện địa chỉ số 237/33/139 Phạm Văn Chiêu, phường 14, quận Gò Vấp thì dựng xe, sau đó đi bộ vào bãi đất để các khung giàn giáo nêu trên lấy trộm 03 ống sắt tròn, 02 mặt giàn giáo bằng kim loại, 02 ống sắt hình hộp chữ nhật. L di chuyển số tài sản mới lấy trộm được nêu trên đi khỏi vị trí ban đầu 03 mét thì bị chủ tài sản là anh Lê Văn C và anh Đoàn Văn H là công nhân tại đây đi kiểm tra công trình phát hiện thấy L đang lấy trộm tài sản nên khống chế bắt giữ Mai Quang L cùng vật chứng nêu trên giao về Công an phường 14 quận Gò Vấp lập biên bản tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang (BL:19-20).

Tại Cơ quan điều tra Mai Quang L đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên(BL:69-74).

Vật chứng thu giữ:

- 03 ống sắt tròn bằng kim loại, sơn màu cam, chiều dài 210cm, đường kính 06cm, độ dày miệng ống 02mm.

- 01 ống bằng sắt hình hộp chữ nhật, dài 147cm x rộng 04cm x 08cm, đồ dày thành ống 1mm.

- 01 ống bằng sắt hình hộp chữ nhật, dài 186,5cm x rộng 04cm x 08cm, đồ dày thành ống 1,5mm.

- 01 tấm sắt dạng hộp chiều dài 149cm, chiều ngang 37cm, chiều cao 5cm, bằng sắt dày 1mm.

- 01 tấm sắt dạng hộp chiều dài 151,5cm, chiều ngang 33cm, chiều cao 5cm, bằng sắt dày 1mm.

- 01 ĐTDĐ hiệu Itel vỏ màu đỏ, số IMEI: 354791090361029.

- 01 xe gắn máy hiệu BONNY, biển số 70K2 – 3494, số khung: RRKWCHOUM6XZ01866, số máy: VTT15JL1P52FMH001866.

Qua định giá, tại bản Kết luận định giá tài sản số: 270/KL ngày 11.10.2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng UBND quận Gò Vấp kết luận 05 ống sắt và 02 tấm sắt có đặc điểm nêu trên trị giá 1.247.000 đồng. Cơ quan điều tra đã trả lại số tài sản trên cho anh Lê Văn C (BL:45;47).

Khi bắt giữ L Cơ quan điều tra tạm giữ 01 xe máy hiệu BONNY biển số: 70K2 – 34xx có số máy 001866, số khung 01866. Tiến hành xác minh biển số: 70K2 – 34xx là xe máy hiệu SUFAT có số máy 004683, số khung 004683 do anh Phan Văn H đứng tên chủ sở hữu, không trùng với số khung, số máy chiếc xe Công an đang tạm giữ. Cơ quan điều tra tiến hành xác minh số máy 001866, số khung 01866 kết quả không tìm thấy dữ liệu tra cứu. Tiến hành trưng cầu giám định số máy 001866, số khung 01866 kết quả không thay đổi. Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay vẫn chưa có người đến liên hệ nhận xe (BL:50-54).

Ngoài ra Cơ quan điều tra còn tạm giữ 01 điện thoại di động hiệu Itel là tư vật của L không liên quan đến vụ án.

Cơ quan điều tra đã nhập kho vật chứng 01 chiếc xe máy biển số: 70K2 – 34xx; 01 điện thoại di động hiệu Itel theo phiếu nhập kho số 266/PNK ngày 31.12.2019 Tại bản cáo trạng số 28/CT-VKS ngày 17/01/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố bị cáo Mai Quang L về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát luận tội, đưa ra quan điểm xét xử và đề nghị Hội đồng xét xử - Xử phạt bị cáo Mai Quang L từ 09 đến 12 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì bị cáo Mai Quang L đã khai nhận hành vi trộm cắp tài sản như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

[2] Lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng bị cáo Mai Quang L phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của người bị hại, bị cáo đã lén lút thực hiện hành vi lấy trộm tài sản rất táo bạo và liều lĩnh. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật và Nhà nước bảo hộ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội, bị cáo sẵn sàng phạm tội để có tiền tiêu xài mà không phải thông qua lao động chân chính, bất chấp hậu quả xảy ra. Tài sản bị cáo trộm cắp là 05 ống sắt và 02 tấm sắt các loại được định giá 1.247.000 đồng tuy nhiên bị cáo có 01 tiền án về tội “Cướp giật tài sản” và 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” nên Viện kiểm sát quận Gò Vấp truy tố bị cáo theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có cơ sở. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt sống có ích. Đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo các tình tiết: Tại cơ quan điều tra và qua diễn biến phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản bị cáo trộm cắp đã được thu hồi trả lại cho bị hại, bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung được qui định tại khoản 5 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Hội đồng xét xử xét tính chất của vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên miễn phạt.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên toà hôm nay, bị hại là ông Lê Văn C vắng mặt nhưng qua hồ sơ thể hiện ông C đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét lại.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Itel vỏ màu đỏ, số IMEI:

354791090361029 là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho bị cáo:

- Đối với 01 xe gắn máy hiệu BONNY, biển số 70K2 – 34xx, số khung: RRKWCHOUM6XZ01866, số máy: VTT15JL1P52FMH001866. Cơ quan điều tra đã xác minh biển số: 70K2 - 3494 là xe máy hiệu SUFAT có số máy 004683, số khung 004683 do anh Phan Văn H đứng tên chủ sở hữu, không trùng với số khung, số máy chiếc xe Công an đang tạm giữ. Cơ quan điều tra tiến hành xác minh số máy 001866, số khung 01866 kết quả không tìm thấy dữ liệu tra cứu. Sau đó cơ quan điều tra tiến hành trưng cầu giám định số máy 001866, số khung 01866 kết quả không thay đổi. Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay vẫn chưa có người đến liên hệ nhận xe. Hội đồng xét xử xét thấy chiếc xe trên là phương tiện phạm tội không có nguồn gốc rõ ràng nên quyết định tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Mai Quang L phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Xử phạt bị cáo Mai Quang L 01(một) năm tù.

Thời hạn tù được tính kể từ ngày 09/10/2019.

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Itel vỏ màu đỏ, số IMEI: 354791090361029:

- Tịch thu sung quỹ Nhà Nước 01 xe gắn máy hiệu BONNY, biển số 70K2 3494, sốkhung:RRKWCHOUM6XZ01866, số máy: VTT15JL1P52FMH001866 (Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 254/PNK ngày 29/10/2018 của Công an quận Gò Vấp).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên toà có thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Tải về
Bản án số 14/2020/HS-ST Bản án số 14/2020/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất