Bản án số 139/2023/HS-ST ngày 27/09/2023 của TAND TP. Kon Tum, tỉnh Kon Tum về tội cưỡng đoạt tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 139/2023/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 139/2023/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 139/2023/HS-ST ngày 27/09/2023 của TAND TP. Kon Tum, tỉnh Kon Tum về tội cưỡng đoạt tài sản |
---|---|
Tội danh: | 135.Tội cưỡng đoạt tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Kon Tum (TAND tỉnh Kon Tum) |
Số hiệu: | 139/2023/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/09/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ KONTUM - TỈNH KONTUM
BẢN ÁN 139/2023/HS-ST NGÀY 27/09/2023 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 27/9/2023, tại trụ sở, Toà án nhân dân thành phố Kon Tum - tỉnh Kon Tum xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 127/2023/TLST - HS ngày 08/9/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 133/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:
Lưu Đình Q (tên gọi khác: Không), sinh năm 1995 tại Bình Định. Nơi cư trú: Thôn T, xã N, thị xã A N, tỉnh Bình Định; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 11/12, dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Văn T, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1965; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân tốt.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay, có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Lưu Đình Q: Luật sư Lê Văn K, sinh năm 1969.
Luật sư thuộc Công ty TNHH MTV hãng luật L G – Đoàn Luật sư tỉnh Đăk Lăk.
Địa chỉ: 585 đường V, phường An Lạc, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk (có mặt).
- Bị hại: Chị Hồ Duyên P, sinh năm 1998.
Trú tại: Thôn X, xã Đ K, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ ngày 27/4/2023, Lưu Đình Q sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A13, màu xanh đăng nhập vào tài khoản Zalo “Quốc Kh” nhắn tin với tài khoản Zalo “Duyên P” do bà Hồ Duyên P sử dụng để nói chuyện. Q không biết P, qua nói chuyện, P giới thiệu là người ở thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Nói chuyện được một lúc, Lưu Đình Q đề nghị Hồ Duyên P gọi video call (Cuộc gọi có hình ảnh) để nói chuyện với nhau, đồng thời đề nghị Hồ Duyên P khỏa thân cho Lưu Đình Q xem thì Lưu Đình Q sẽ trả cho bà Hồ Duyên P số tiền là 1.000.000 đồng (Một triệu đồng), nghe vậy Hồ Duyên P đồng ý. Sau đó, giữa Q và P gọi điện video call với nhau và P thực hiện yêu cầu khỏa thân cho Q xem trong khoảng thời gian 05 (Năm) phút. Trong lúc, bà Hồ Duyên P khỏa thân theo yêu cầu của Lưu Đình Q thì Q sử dụng điện thoại quay lại. Sau đó, Lưu Đình Q không trả tiền cho P như đã thỏa thuận mà nhắn tin đe dọa là đã quay video P khỏa thân và sẽ gửi đoạn video cùng tin nhắn giữa P và Q cho gia đình P nếu P không chuyển cho mình số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng). Hồ Duyên P lo sợ bị chồng và gia đình phát hiện sự việc nên đã hai lần chuyển tiền vào số tài khoản 970422920539850X (Tài khoản ví điện tử Viettel Pay), chủ tài khoản Lưu Đình Qu, lần thứ nhất Hồ Duyên P chuyển 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) và lần thứ hai Hồ Duyên P chuyển 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng). Sau khi bà Hồ Duyên P chuyển tiền xong thi Lưu Đình Q tiếp tục yêu cầu bà Hồ Duyên P phải chuyển tiếp số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) nhưng bà Hồ Duyên P không thực hiện. Lo sợ sẽ tiếp tục bị tống tiền nên bà Hồ Duyên P đến Phòng An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao – Công an tỉnh Kon Tum để trình báo sự việc. Đến ngày 04/5/2023, Lưu Đình Q sợ bị Cơ quan Công an phát hiện nên, Lưu Đình Q sử dụng số thuê bao 0866480X nhắn tin cho bà Hồ Duyên P (Số thuê bao 0389379X) hỏi bà Hồ Duyên P về việc đã trình báo vụ việc đến Cơ quan Công an hay chưa, thì bà Hồ Duyên P nói chưa báo và yêu cầu Lưu Đình Q trả lại tiền nhưng Q không thực hiện. Đồng thời, Lưu Đình Q đã xóa toàn bộ video, hình ảnh, nội dung tin nhắn, hủy tài khoản Zalo “Quốc Kh” trên chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A13, màu xanh mà Lưu Đình Q sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội.
Tại Bản kết luận giám định số 123/KL-KTHS ngày 22 tháng 6 năm 2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kon Tum kết luận về dữ liệu trong điện thoại di động nhãn hiệu SamSung, màu xanh của Lưu Đình Q: Không có ứng dụng Facebook, Messenger trên điện thoại. Trong ứng dụng Zalo không có tài khoản mang tên “Quốc Kh”. Dữ liệu khôi phục, trích xuất video, hình ảnh, tin nhắn SMS kể từ ngày 26/4/2023 có: 4310 hình ảnh, 07 video, 64 tin nhắn đến, 06 tin nhắn đi.
Tại bản cáo trạng số 125/CT ngày 06/9/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum truy tố bị cáo về tội “Cưỡng đoạt tài sản” quy định tại Khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017, Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lưu Đình Q phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 170; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điểu 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017, xử phạt bị cáo Lưu Đình Q từ 9 đến 12 tháng tù.
- Về vật chứng: Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum đã thu giữ 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A13, màu xanh (Đã được niêm phong). Đây là công cụ phạm tội của bị cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước.
- Về trách nhiệm dân sự: Sau khi xảy ra sự việc, bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) là số tiền tổn thất tinh thần, bị hại không có yêu cầu gì khác nên không xem xét giải quyết.
Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận đã có hành vi cưỡng đoạt tài sản như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.
Bị cáo và bị hại không có ý kiến tranh luận gì, nhất trí với lời luận tội của Kiểm sát viên.
Luật sư Lê Văn K – Người bào chữa cho bị cáo có ý kiến: Tôi thấy về mặt tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện các thủ tục tố tụng chặt chẽ, đúng quy định của pháp luật. Tôi nhất trí với bản cáo trạng về tội danh của bị cáo. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo các điểm b,s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự hiện hành (bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải; tự nguyện bồi thường cho người bị hại và người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo). Hơn nữa, bị hại cũng có một phần lỗi là lối sống không lành mạnh. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị chưa thể hiện được sự khoan hồng của pháp luật. Xét thấy, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có 03 tình tiết giảm nhẹ ở Khoản 1 Điều 51, chỉ cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54, Điều 36 Bộ luật Hình sự hiện hành, xử phạt bị cáo 09 tháng cải tạo không giam giữ.
Đại diện Viện kiểm sát không nhất trí với quan điểm của Luật sư về mức hình phạt vì điều luật mà bị cáo bị truy tố (Khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự hiện hành) không có hình phạt cải tạo không giam giữ nên không áp dụng được.
Bị cáo nói lời sau cùng, xin giảm nhẹ hình phạt.
Bị hại xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Kon Tum, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại không có ý kiến về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên toà, bị cáo Lưu Đình Q đã khai nhận toàn bộ hành vi và quá trình phạm tội như cáo trạng mô tả. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại hồ sơ, phù hợp với lời khai của bị hại và với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ kết luận: Ngày 27/4/2023, Lưu Đình Q đã dùng đoạn video hình ảnh khỏa thân của Hồ Duyên P để uy hiếp, đe dọa tinh thần và tống tiền đối với bà Hồ Duyên P 02 lần, trong đó, 01 lần đã chiếm đoạt của bà Hồ Duyên P số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng). Do đó, hành vi của Lưu Đình Q đã phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum đã truy tố.
Xét hành vi dùng đoạn video hình ảnh khỏa thân của bị hại để uy hiếp, đe dọa tinh thần đối với bà Hồ Duyên P và chiếm đoạt của bà Hồ Duyên P số tiền 500.000 đồng của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức rõ được việc cưỡng đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng do vụ lợi nên bị cáo đã cố ý thực hiện, với mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản. Hành vi của bị cáo không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bào vệ mà còn trái đạo đức xã hội và thuần phong, mỹ tục của dân tộc; gián tiếp tạo ra nguy cơ đe doạ đến danh dự, nhân phẩm và hạnh phúc gia đình của bị hại nên cần xử phạt bị cáo hình phạt tù có thời hạn mới đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.
[4] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự nguyện bồi thường cho bị hại 3.000.000 đồng. Bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cho bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo có 02 lần thực hiện hành vi tống tiền chị P, 01 lần đã chiếm đoạt được 500.000 đồng, 01 lần đòi chị P 200.000 đồng nhưng chưa đạt do chị P trình báo cơ quan Công an. Như vậy, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự hiện hành.
[6] Xét về nhân thân bị cáo, Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nhân thân tốt. Trước lần phạm tội này, bị cáo Lưu Đình Q chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu. Bị cáo đã tự giác giao nộp số tiền 500.000 đồng đã chiếm đoạt để trả lại cho người bị hại. Đây cũng là các yếu tố để Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình cho bị cáo.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo vì không phù hợp với hoàn cảnh của bị cáo.
[6] Về vật chứng: Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum đã thu giữ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A13, màu xanh (đã được niêm phong). Đây là tài sản của bị cáo và được bị cáo dung làm công cụ phạm tội nên cần tịch thu, sung quỹ Nhà nước.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị mất và bị cáo đã bồi thường số tiền 3.000.000 đồng tiền tổn thất tinh thần. Bị hại không có yêu cầu gì thêm về mặt dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1.Tuyên bố bị cáo Lưu Đình Q phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 170; các điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Lưu Đình Q 01 (một) năm tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017;
Tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A13, màu xanh (đã được niêm phong). Vật chứng có đặc điểm theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/9/2023 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Kon Tum.
3.Về án phí:
Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Lưu Đình Q phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!