Bản án số 13/2025/DS-ST ngày 09/07/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 6 - Đà Nẵng, TP Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 13/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 13/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 13/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 13/2025/DS-ST ngày 09/07/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 6 - Đà Nẵng, TP Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 6 - Đà Nẵng, TP Đà Nẵng |
Số hiệu: | 13/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 09/07/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm h khoản 1 Điều 40, khoản 2 Điều 1 Luật số 85/2025/QH15 ngày 25/6/2025 của Quốc Hội, khoản 3 Điều 92, Điều 157, 158, khoản 2 Điều 227, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 116, Điều 117, khoản 1 Điều 275, Điều 352, Điều 288, Điều 385, Điều 398, Điều 401 của Bộ luật Dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tuyên xử |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 10 – THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Võ Văn Thể.
Các Hội thẩm nhân dân: 1/ Bà Lương Thị Kim Anh.
2/ Ông Nguyễn Lương Thành.
Thư ký phiên tòa: Bà Trương Thị Quý – Thư ký Tòa án nhân dân Khu vực 10 –
Đà Nẵng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Khu vực 10, thành phố Đà Nẵng tham gia
phiên tòa: Bà Đinh Thị Thu Hòa – Kiểm sát viên.
Trong ngày 09 tháng 7 năm 2025, tại Hội trường TAND Khu vực 10 – Đà Nẵng
xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 324/2024/TLST-DS, ngày
03/10/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt mua đất nền” theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số: 87/2025/QĐXXST-DS, ngày 12 tháng 5 năm 2025, Quyết định hoãn
phiên tòa ngày 28/5/2025 và Thông báo thay đổi thời gian xét xử ngày 24/6/2025,
giữa:
- Nguyên đơn: Bà Lê Thị D, sinh năm: 1989; Địa chỉ: Tổ 11, phường A, quận
Th, thành phố Đà Nẵng. Địa chỉ hiện nay: K01B/89 Lê Trọng Tấn, phường A, thành
Phố Đà Nẵng. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thế C, sinh năm: 1965; địa chỉ:
K52/26 Đinh Tiên Hoàng, phường H, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
- Bị đơn: + Công ty Cổ phần B; địa chỉ trụ sở: Lô A7-21, 22 KĐT Sentosa
Riverside, phường Đ, thành phố Đà Nẵng. Người đại diện theo pháp luật: Ông Diệp
Bảo L - Tổng giám đốc và ông Nguyễn Công M - Chủ tịch Hội đồng quản trị. Người
đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Đ, sinh năm: 1973; địa chỉ: Số 56, đường Huỳnh
Tịnh Của, phường H, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
+ Công ty TNHH Đầu tư Bất động sản G; địa chỉ trụ sở chính: 207/6 Nguyễn
Văn Thủ, phường K, Quận 1, tp HCM. Địa chỉ hiện nay: 207/6 Nguyễn Văn Thủ,
phường G, Thành phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ liên hệ: Số 51P Nguyễn Chí Thanh,
phường H, thành phố Đà Nẵng. Người đại diện theo pháp luật: Bà Đinh Anh Đ - Chức
danh: Giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đinh Quang T - Chức danh: Phó
giám đốc (Vắng mặt).
TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 10 – ĐÀ NẴNG
Bản án số: 13/2025/DS-ST
Ngày 09-7-2025.
V/v “Tranh chấp hợp đồng đặt mua
đất nền”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Do có nhu cầu mua
đất nền để làm nhà ở nên ngày 26/8/2017, bà Lê Thị D đã ký kết hợp đồng đặt mua đất
nền số 530/2017/HĐĐM-G (viết tắt: Hợp đồng số 530) với Công ty TNHH Đầu tư Bất
động sản G (viết tắt: Công ty G) để đặt mua lô đất ký hiệu số C22-05; diện tích 100m2
(rộng 5m, dài 20m) tại Dự án 7B mở rộng mà chủ đầu tư là Công ty Cổ phần B với giá
trị hợp đồng là 461.538.500 đồng; giá trị sau khi trừ chiếc khấu: 420.000.035 đồng.
Thực hiện hợp đồng, bà Lê Thị D đã thanh toán đầy đủ và đúng theo tiến độ số tiền là:
399.000.033 đồng (đã trừ chiếc khấu) tương đương 95% giá trị lô đất. Số tiền này bà
Lê Thị D đã nộp trực tiếp cho Công ty Cổ phần Bất động sản G theo giấy xác nhận
tiến độ thanh toán ngày 24/12/2018; đây là tiền thanh toán giá trị lô đất. Số tiền còn lại
phải đóng là 21.000.002 đồng tương đương 5% giá trị lô đất và thỏa thuận khi nào hai
bên ký hợp đồng chuyển nhượng QSD đất tại Công chứng, bàn giao bản chính giấy
chứng nhận và bàn giao lô đất trên thực tế thì bà Lê Thị D sẽ thanh toán cho Công ty
G.
Vào thời điểm ký hợp đồng đặt mua đất nền với Công ty G, bà Lê Thị D biết
thửa đất nêu trên chủ đầu tư là Công ty B và thửa đất này chưa được cấp giấy chứng
nhận QSD đất. Sở dĩ bà Lê Thị D ký hợp đồng đặt mua đất nền với Công ty G là do
Công ty G đã ký hợp đồng thỏa thuận góp vốn để đặt mua đất nền dự án 7B mở rộng
với Công ty B số 14/2017/HĐĐC/BĐA-CN ngày 14/7/2017 (viết tắt: Hợp đồng số
14/2017/HĐĐC/BĐA-CN). Khi ký hợp đồng đặt mua, Công ty G cung cấp các văn
bản pháp lý liên quan đến Dự án 7B mở rộng nơi có thửa đất mà bà Lê Thị D đặt mua.
Việc ký hợp đồng đặt mua đất nền giữa bà Lê Thị D với Công ty G nhằm mục đích
tiến đến việc ký hợp đồng chuyển nhượng QSD đất tại Văn phòng Công chứng khi
thửa đất nêu trên được cấp giấy chứng nhận QSD đất. Theo Điều 4 của Hợp đồng quy
định: “Thời gian tạo lập và ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất là 14 tháng kể từ
ngày Hợp đồng đặt mua này được ký kết”, nhưng đến nay đã hơn 06 năm vẫn chưa
nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho lô đất nêu trên mặc dù bà Lê Thị D
đã nhiều lần yêu cầu.
Nay bà Lê Thị D yêu cầu Tòa án buộc Công ty G và Công ty B phải liên đới tiếp
tục thực hiện Hợp đồng số 530, ký hợp đồng chuyển nhượng QSD đất đối với lô đất ký
hiệu số C22-05 tại Văn phòng công chứng, bàn giao bản chính giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất và bàn giao lô đất trên thực tế cho bà Lê Thị D. Đối với số tiền chi phí
xem xét thẩm định tại chỗ nguyên đơn đã nộp tạm ứng 1.600.000 đồng, nguyên đơn
yêu cầu giải quyết theo pháp luật.
Người đại diện theo ủy quyền của Công ty G trình bày: Công ty Cổ phần B là
chủ đầu tư Dự án 7B mở rộng tại Khu đô thị mới Đ, phường Điện Ngọc. Ngày
14/7/2017 Công ty G và Công ty B đã ký hợp đồng thỏa thuận góp vốn để đặt cọc mua
đất nền dự án 7B mở rộng số 14/2017/HĐĐC/BĐA-CN. Theo hợp đồng thì Công ty B
đồng ý cho Công ty G góp vốn đặt cọc để mua 435 (bốn trăm ba mươi lăm) lô đất nền
thuộc dự án 7B mở rộng (có danh sách kèm theo hợp đồng). Công ty G là một trong
những đơn vị phân phối sản phẩm Dự án 7B mở rộng do chủ đầu tư là Công ty B thực

3
hiện. Trên cơ sở ký hợp đồng thoả thuận góp vốn với Công ty B thì ngày 26/8/2017, bà
Lê Thị D đã ký kết hợp đồng đặt mua đất nền số: 530/2017/HĐĐM-G với Công ty G
để đặt mua lô đất ký hiệu số C22-05, diện tích 100 m2 (rộng 5m, dài 20m) tại dự án
7B mở rộng mà chủ đầu tư là Công ty B với giá trị hợp đồng là: 461.538.500 đồng
(chưa chiết khấu).
Sau khi ký hợp đồng, ngày 24/12/2018 Công ty ký Giấy xác nhận bà Lê Thị D
đã thanh toán giá trị lô đất cho Công ty G với số tiền là: 399.000.033 đồng (tương ứng
với 95% số tiền của sản phẩm), số tiền 5% còn lại phải đóng là 21.000.002 đồng. Vào
thời điểm ký hợp đồng đặt mua đất nền với Công ty G, tất cả các khách hàng đều biết
rõ tình trạng pháp lý của lô đất đặt mua và chủ đầu tư của Dự án 7B mở rộng là Công
ty B, đồng thời trên thực tế Công ty G chưa bàn giao lô đất nêu trên cho bà D.
Tại thời điểm khách hàng đặt cọc mua đất nền dự án 7B mở rộng, Công ty B vẫn
chưa thể ký trực tiếp với khách hàng vì thiếu một số thủ tục pháp lý, vì vậy mặt dù có
thỏa thuận với Công ty B, nhưng Công ty G đã thiếu văn bản ủy quyền để đứng ra ký
hợp đồng đặt cọc tạm thời với khách hàng thay cho Công ty B, Công ty G đã tổng hợp
danh sách khách hàng gửi qua Công ty B để Công ty B nắm bắt, theo dõi. Sau khi dự
án 7B mở rộng hoàn thành các thủ tục pháp lý Công ty G sẽ tổng hợp danh sách khách
hàng để gửi qua Công ty B ký trực tiếp với khách hàng, bên cạnh đó Công ty G sẽ thu
hồi và thanh lý hợp đồng đặt mua đất nền đã ký với khách hàng.
Số tiền mà Công ty G nhận của bà Lê Thị D và các khách hàng khác, Công ty G
không chuyển cho Công ty B theo từng khách hàng đối với từng lô đất mà đã chuyển
tiền cho Công ty B theo từng đợt thanh toán được quy định tại Điều 2 của Hợp đồng
thỏa thuận góp vốn để đặt cọc mua đất nền dự án 7B mở rộng số 14/2017/HĐĐC-
BĐA-CN ngày 14/7/2017 và đến nay Công ty G chuyển nhiều đợt tương đương 70%
giá trị hợp đồng số 14/2017/HĐĐC-BĐA-CN ngày 14/7/2017. Hiện nay Công ty B
vẫn đang thực hiện hợp đồng đã ký kết với Công ty G và Công ty G vẫn đang tiếp tục
thực hiện hợp đồng đặt mua đất nền dự án 7B mở rộng đã ký kết với các khách hàng
trong đó có bà Lê Thị D. Dự án khu đô thị 7B mở rộng đã được UBND tỉnh Quảng
Nam thống nhất điều chỉnh tiến độ thực hiện theo Công văn số 6807/UBND-KTN
ngày 10/9/2024, chủ đầu tư đang hoàn thiện cơ sở pháp lý và thi công cơ sở hạ tầng để
hoàn thành dự án.
Nay nguyên đơn khởi kiện, Công ty G đã và đang tiếp tục thực hiện Hợp đồng số
530 ký ngày 26/8/2017 với bà Lê Thị D.
Người đại diện theo ủy quyền của Công ty Cổ phần B trình bày: Việc ký kết
Hợp đồng giữa Công ty TNHH Đầu tư Bất động sản G và bà Lê Thị D là hành vi pháp
lý đơn phương của Công ty G với bà D và không có sự đồng thuận nào từ Công ty B.
Theo nội dung khởi kiện, bà Lê Thị D đã nộp tiền cho Công ty G nhưng Công ty G
không có báo cáo, không chuyển số tiền này cho Công ty B và Công ty G sử dụng số
tiền trên vào những hoạt động nào thì Công ty B không được biết. Bên cạnh đó, Công
ty G cũng không hợp tác với Công ty B để thực hiện Dự án 7B mở rộng, Công ty B đề
nghị thực hiện nghĩa vụ tài chính và đề nghị tổ chức làm việc nhưng Công ty G không
phối hợp. Đến nay Công ty B cũng không có bất ký yêu cầu/đề nghị nào đến Công ty

4
G về việc chấm dứt Hợp đồng/giao dịch với bà Thoa, vì đây là thỏa thuận riêng giữa
Công ty G và bà D. Do đó, đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết xác định rõ quyền,
nghĩa vụ của Công ty B đối với việc Công ty G ký hợp đồng với bà Lê Thị D khi Công
ty B không phải là một bên giao dịch trong Hợp đồng này. Vì vậy, đề nghị Tòa án
không buộc chủ đầu tư là Công ty B phải gánh chịu hậu quả do hành vi sai trái và đơn
phương của Công ty G.
Công ty B vẫn luôn sẵn sàng phối hợp cùng các bên, nếu Công ty G thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ theo quy định tại Hợp đồng góp vốn số 14/2017/HĐĐC-BĐA-CN
ngày 14/7/2017, Biên bản họp ngày 13/6/2019, Văn bản cam kết ngày 12/6/2019 để
hoàn thành Dự án Khu đô thị 7B mở rộng hướng đến việc người dân được nhận đất,
nhận giấy chứng nhận QSD đất theo quy định của pháp luật và thỏa thuận giữa các
bên.
Tóm tắt ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:
+ Về việc tuân theo pháp luật: Từ khi thụ lý vụ án Thẩm phán, Thư ký Tòa án và
Hội đồng xét xử được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đúng theo trình tự, thủ
tục do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định. Các đương sự chấp hành đúng các quy định
của pháp luật, riêng đại diện Công ty G không chấp hành đúng quy định của pháp luật,
trong quá trình giải quyết vụ án nhiều lần vắng mặt không có lý do.
+ Về giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, buộc Công ty G và Công ty B phải có nghĩa vụ liên đới tiếp tục thực hiện Hợp
đồng số 530 ký ngày 26/8/2017, giữa Công ty G với bà Lê Thị D.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà
và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Lê Thị D khởi
kiện yêu cầu Công ty B và Công ty G liên đới tiếp tục thực hiện Hợp đồng số 530; căn
cứ khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 1 Luật số 85/2025/QH15
ngày 25/6/2025 của Quốc Hội thì đây là tranh chấp về hợp đồng dân sự mà cụ thể là
“Tranh chấp hợp đồng đặt mua đất nền” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân
dân khu vực. Công ty B có trụ sở chính tại phường Đ, thành phố Đà Nẵng và Công ty
G có trụ sở chính tại phường Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh; theo điểm h khoản 1
Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở
nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi một trong các bị đơn cư
trú, làm việc, có trụ sở giải quyết”. Trong vụ án này, nguyên đơn đã lựa chọn Toà án
nơi Công ty B có trụ sở để giải quyết, do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của
TAND Khu vực 10 - Đà Nẵng.
[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt người đại diện theo ủy quyền
của Công ty G mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy
định pháp luật. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét
xử tiến hành xét xử là đảm bảo đúng quy định pháp luật.

5
[3] Về nội dung tranh chấp: Bà Lê Thị D khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công
ty B và Công ty G liên đới thực hiện Hợp đồng số 530, thực hiện thủ tục ký hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng lô đất ký hiệu số C22-05, bàn giao Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và bàn giao lô đất cho bà Lê Thị D. Xét thấy việc bà Lê Thị D yêu
cầu tiếp tục thực hiện Hợp đồng số 530 là đã bao gồm các nội dung về việc thực hiện
thủ tục ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với lô đất, bàn giao Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và bàn giao lô đất; bỡi lẽ các yêu cầu nêu trên đã được
các bên thoả thuận tại Điều 6 của Hợp đồng. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét yêu cầu
buộc tiếp tục thực hiện Hợp đồng số 530 là đã đảm bảo tất cả các yêu cầu của nguyên
đơn.
Xét yêu cầu của nguyên đơn thấy rằng: Công ty B là chủ đầu tư Dự án Khu đô thị
7B mở rộng tại Đô thị mới Điện Nam- Điện Ngọc, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
theo Quyết định số 2450/QĐ-UBND ngày 10/7/2017 của UBND tỉnh Quảng Nam về
việc chuyển nhiệm vụ chủ đầu tư thực hiện các dự án trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ
Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Bách Đạt sang cho Công ty B. Sau khi được
cơ quan có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư, Công ty B tìm kiếm đối tác có
khả năng tài chính để tiến hành góp vốn đầu tư xây dựng dự án theo đúng thiết kế, quy
hoạch được phê duyệt và Công ty G mong muốn góp vốn đặt cọc mua các lô đất tại dự
án 7B mở rộng, nên ngày 14/7/2017 Công ty B ký kết Hợp đồng số
14/2017/HĐĐC/BĐA-CN với Công ty G. Theo nội dung Hợp đồng số
14/2017/HĐĐC/BĐA-CN thì Công ty B đồng ý cho Công ty G góp vốn đặt cọc để
mua 435 lô đất nền tại dự án 7B mở rộng, danh sách, vị trí chi tiết của các lô đất được
thể hiện trong phụ lục số 01 là một phần không thể tách rời Hợp đồng số
14/2017/HĐĐC/BĐA-CN. Các bên tham gia ký kết hợp đồng hoàn toàn tự nguyện, có
đủ năng lực hành vi dân sự, nội dung giao kết hợp đồng phù hợp với quy định của pháp
luật nên Hợp đồng số 14/2017/HĐĐC/BĐA-CN phát sinh hiệu lực, các bên phải có
nghĩa vụ thực hiện hợp đồng theo quy định tại Điều 117, khoản 1 Điều 275, Điều 352,
Điều 401 của Bộ luật Dân sự.
Thực hiện Hợp đồng số 14/2017/HĐĐC/BĐA-CN, Công ty G tiến hành thanh
toán tiền đặt cọc mua các lô đất cho Công ty B theo nội dung thoả thuận, đồng thời
Công ty G tiến hành ký hợp đồng đặt mua đất nền với các khách hàng trong phạm vi
435 lô đất đã góp vốn tại Hợp đồng số 14/2017/HĐĐC/BĐA-CN. Ngày 26/8/2017
Công ty G tiến hành ký Hợp đồng số 530 với bà Lê Thị D. Theo nội dung hợp đồng thể
hiện bà Lê Thị D có nhu cầu đặt mua lô đất tại dự án 7B mở rộng ký hiệu số C22-05,
diện tích 100 m2 với giá 461.538.500đồng. Công ty G sẽ tiến hành các thủ tục ký hợp
đồng chuyển nhượng QSD đất tại phòng công chứng và hoàn tất các thủ tục cấp giấy
chứng nhận QSD đất trong vòng 14 tháng kể từ ngày ký Hợp đồng số 530. Các bên
tham gia ký kết hợp đồng hoàn toàn tự nguyện, có đủ năng lực hành vi dân sự, nội
dung giao kết hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật nên Hợp đồng số 530 phát
sinh hiệu lực, các bên phải có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng theo quy định tại Điều 117,
khoản 1 Điều 275, Điều 352, Điều 401 của Bộ luật Dân sự.

6
Thực hiện Hợp đồng số 530, bà Lê Thị D thực hiện tiến độ thanh toán đúng thoả
thuận và đã nộp trực tiếp cho Công ty G số tiền 399.000.033 đồng, tương đương 95%
giá trị lô đất mà bà Lê Thị D đặt mua.
Theo khoản 8.2.17 Điều 9 của Hợp đồng số 14/2017/HĐĐC/BĐA-CN quy định:
“bên B có quyền bán/chuyển nhượng các lô đất cho bên thứ Ba sau khi thanh toán tiền
đặt cọc và nộp đủ tiền đợt 1”. Theo các chứng cứ mà Công ty G cung cấp tính đến
ngày 22/8/2017 Công ty G đã thanh toán đợt 1 tiền đặt cọc theo Hợp đồng số
14/2017/HĐĐC/BĐA-CN là 31.000.000.000 đồng (ba mươi mốt tỷ đồng) tương đương
22% giá trị Hợp đồng số 14/2017/HĐĐC/BĐA-CN, Công ty G thực hiện đúng nội
dung thoả thuận tại Điều 2 và Điều 9 của Hợp đồng số 14/2017/HĐĐC/BĐA-CN, nên
Công ty G được quyền ký Hợp đồng số 530 với bà Lê Thị D. Đồng thời đại diện Công
ty G thừa nhận đã và đang tiếp tục thực hiện hợp đồng đặt mua đất nền dự án 7B mở
rộng đã ký kết với bà Lê Thị D. Tình tiết này được đại diện Công ty Giaia thừa nhận,
căn cứ khoản 3 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự; đây là những tình tiết không cần phải
chứng minh. Do đó việc bà Lê Thị D yêu cầu Công ty G tiếp tục thực hiện Hợp đồng
số 530 là có căn cứ chấp nhận.
Xét yêu cầu buộc Công ty B liên đới thực hiện Hợp đồng số 530 thấy rằng: Theo
khoản 5.1 Điều 5 của Hợp đồng số 14/2017/HĐĐC/BĐA-CN quy định: “…Ngay sau
khi ký hợp đồng này, bên B có quyền chỉ định các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện sở
hữu bất động sản tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là bên thứ Ba) ký hợp đồng đặt
cọc/nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong phạm vi các lô mà bên B đã đặt cọc
mua của B tại Điều 1 của Hợp đồng này. Bách Đạt không được phép từ chối ký hợp
đồng đặt cọc/chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với bên thứ Ba. Quyền và nghĩa vụ
của bên thứ Ba quy định trong hợp đồng đặt cọc/nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất sẽ kế thừa tương ứng các quyền và nghĩa vụ của bên B theo quy định tại Hợp đồng
này và các quy định của pháp luật…”
Theo tiểu mục 8.2.8 và tiểu mục 8.2.9 khoản 8.2 Điều 8 của Hợp đồng số
14/2017/HĐĐC/BĐA-CN quy định cam kết và nghĩa vụ của B như sau: “Ký kết hợp
đồng đặc cọc/chuyển quyền đặt mua với bên thứ Ba ngay khi bên B chỉ định và bên thứ
Ba đã thanh toán đủ khoản tiền đợt 1”và “Bách Đạt cam kết ký và bàn giao hợp đồng
đặt cọc/chuyển quyền sử dụng đất với bên thứ Ba trong vòng 7 ngày làm việc kể từ
ngày bên B chuyển danh sách bên thứ Ba mua các lô đất sang cho Bách Đạt”.
Từ những thoả thuận và cam kết nêu trên của Công ty B thì Công ty B không có
quyền từ chối ký hợp đồng đặt cọc/hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
bên thứ ba do Công ty G chỉ định trong phạm vi 435 lô đất mà Công ty G góp vốn đặt
mua tại Hợp đồng số 14/2017/HĐĐC/BĐA-CN. Mặc khác, Công ty G thừa nhận Công
ty B vẫn đang thực hiện Hợp đồng số 14/2017/HĐĐC/BĐA-CN với Công ty G, đồng
thời theo các chứng từ thanh toán do Công ty G cung cấp tính đến nay Công ty G đã
thanh toán cho Công ty B với tổng số tiền 101,2 tỷ đồng (một trăm lẻ một tỷ, hai trăm
triệu đồng) tương đương 70% giá trị Hợp đồng số 14/2017/HĐĐC/BĐA-CN, nguồn
tiền 101,2 tỷ đồng mà Công ty G đã thanh toán cho Công ty B được thu từ các khách
hàng đặt cọc mua 435 lô đất tại Hợp đồng số 14/2017/HĐĐC/BĐA-CN, trong đó có lô

7
đất ký hiệu số C22-05 của bà Lê Thị D đặt mua.
Theo thoả thuận tại Điều 4 của Hợp đồng số 530 quy định thời gian tạo lập và ký
kết hợp đồng chuyển nhượng QSD đất là 14 tháng kể từ ngày hợp đồng đặt mua được
ký kết, đến nay đã quá thời hạn thỏa thuận, nhưng bà Lê Thị D vẫn yêu cầu tiếp tục
thực hiện Hợp đồng số 530. Đồng thời dự án Khu đô thị 7B mở rộng hiện nay tuy chưa
được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng đã được
Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam điều chỉnh tiến độ thực hiện dự án đến hết tháng
12/2025 và hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng theo Văn bản số 6807/UBND-KTN
ngày 10/9/2024. Do đó, Hợp đồng số 530 vẫn đảm bảo các điều kiện có hiệu lực để
thực hiện theo quy định của pháp luật, nên HĐXX buộc Công ty B và Công ty G liên
đới tiếp tục thực hiện Hợp đồng số 530 là có căn cứ pháp luật.
Từ những phân tích và nhận định nêu trên, việc bà Lê Thị D yêu cầu Công ty B
liên đới cùng Công ty G tiếp tục thực hiện Hợp đồng số 530 là có căn cứ nên HĐXX
chấp nhận.
[5] Về án phí và chi phí tố tụng: Căn cứ Điều 157, 158 Bộ luật Tố tụng dân sự và
khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc Hội thì Công ty B và Công ty G liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm
và chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ. Nguyên đơn đã nộp tạm ứng chi phí tố tụng số
tiền 1.600.000 đồng và đã chi phí xong, nên Công ty B và Công ty G phải liên đới hoàn
trả lại cho nguyên đơn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm h khoản 1 Điều 40, khoản 2 Điều 1 Luật số
85/2025/QH15 ngày 25/6/2025 của Quốc Hội, khoản 3 Điều 92, Điều 157, 158, khoản
2 Điều 227, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 116, Điều 117,
khoản 1 Điều 275, Điều 352, Điều 288, Điều 385, Điều 398, Điều 401 của Bộ luật Dân
sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị D đối với Công ty Cổ
phần B và Công ty TNHH Đầu tư Bất động sản G về việc: “Tranh chấp hợp đồng đặt
mua đất nền”.
1. Buộc Công ty Cổ phần B và Công ty TNHH Đầu tư Bất động sản G phải có
nghĩa vụ liên đới tiếp tục thực hiện Hợp đồng đặt mua đất nền dự án 7B mở rộng số
530/2017/HĐĐM-G ký kết ngày 26/8/2017, giữa Công ty TNHH Đầu tư Bất động sản
G và bà Lê Thị D.
2. Về án phí: Công ty TNHH Đầu tư Bất động sản G và Công ty Cổ phần B phải
có nghĩa vụ liên đới chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí Dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho bà Lê Thị D số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng
(Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0014722 ngày 03/10/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là Phòng thi hành án dân sự
Khu vực 10 – Đà Nẵng).

8
3. Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét, thẩm định tại chổ số tiền 1.600.000 đồng
(Một triệu sáu trăm nghìn đồng). Buộc Công ty Cổ phần B và Công ty TNHH Đầu tư
Bất động sản G phải có nghĩa vụ liên đới hoàn trả cho bà Lê Thị D số tiền trên.
4. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong hạn
15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 09/7/2025). Đương sự vắng mặt tại phiên toà có
quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt
hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi
hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Đương sự;
- TAND Tp. Đà Nẵng;
- VKSND Khu vực 10 – Đà Nẵng;
- Phòng THADS Khu vực 10 – Đà Nẵng;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
(Đã ký)
Võ Văn Thể

9

10
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
CÁC HỘI THẨM NHÂN DÂN
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

11
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 27/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 25/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 25/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 10/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 09/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 23/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 23/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm