Bản án số 13/2024/HS-ST ngày 16/04/2024 của TAND huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 13/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 13/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 13/2024/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 13/2024/HS-ST ngày 16/04/2024 của TAND huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định |
|---|---|
| Tội danh: | |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Mỹ Lộc (TAND tỉnh Nam Định) |
| Số hiệu: | 13/2024/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 16/04/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Trần Quý Huy "Tàng trữ trái phép chất ma tuý". |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN MỸ LỘC
TỈNH NAM ĐỊNH
Bản án số: 13/2024/HS-ST
Ngày 16-4- 2024
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ LỘC, TỈNH NAM ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Văn Quang.
Các hội thẩm nhân dân:
Bà Phạm Lan Anh;
Bà Trần Thị Tuyết.
- Thư ký phiên toà: Ông Trần Công Thương - Thư ký Toà án nhân dân
huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định tham
gia phiên toà: Bà Nguyễn Thị Thu Trang - Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh
Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:
13/2024/TLST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số: 11/2024/QĐXXST- HS ngày 02/4/2024 đối với bị cáo:
Trần Quý H, sinh năm 1992 tại huyện N, tỉnh Hà Nam; nơi cư trú: Thôn M,
xã H, huyện N, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân
tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần
Văn H1 (đã chết) và bà Trần Thị L; có vợ Hoàng Linh A và 02 con; tiền án:
Không; tiền sự: Không; bị bắt, giam giữ ngày 23/01/2024; có mặt.
- Người chứng kiến:
Ông Trần Văn T;
Ông Trần Văn K.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ 20 phút ngày 22 tháng 01 năm 2024, Tổ công tác Công an xã
T, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định làm nhiệm vụ tuần tra bảo đảm an ninh trật tự
tại địa bàn thôn X, xã Mỹ T, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định phát hiện Trần Quý
H điều khiển xe Mô tô biển số 18B1-794.xx có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu
dừng xe để kiểm tra. Qua kiểm tra, H tự giác giao nộp 01 gói nilon màu trắng,
bên trong có 02 gói giấy bạc màu vàng chứa chất bột dạng cục màu trắng (H khai
là Heroine mua về để sử dụng). Tổ công tác đã mời người chứng kiến việc thu
2
giữ, niêm phong vật chứng và đưa H cùng phương tiện về trụ sở Công an xã T lập
biên bản bắt người phạm tội quả tang, sau đó bàn giao cho Công an huyện Mỹ
Lộc giải quyết theo thẩm quyền.
Khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Quý H không thu giữ gì.
Bản kết luận giám định số 382/KL-KTHS ngày 25/01/2024 của Phòng kỹ
thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong
02 (Hai) gói giấy bạc màu vàng được niêm phong gửi giám định đều là ma tuý.
Loại ma tuý: Heroine. Tổng khối lượng mẫu: 0,224 gam.
Tại cơ quan điều tra, H khai nhận hành vi của mình như trên. Về nguồn gốc
số ma tuý, H khai mua của một người không quen biết ở đường trục thôn X, xã T,
huyện L, tỉnh Nam Định với giá 200.000 đồng nên Cơ quan điều tra không có căn
cứ để xác minh, làm rõ đối tượng đã bán ma tuý cho H.
Chiếc xe Mô tô nhãn hiệu Dream biển số 18B1-794.xx do H điều khiển bị
thu giữ được xác định là tài sản hợp pháp của anh Trần Hữu T, sinh năm 1995;
trú tại thôn B, xã H, huyện N, tỉnh Hà Nam. Anh T không biết việc H mượn rồi
sử dụng chiếc xe này để đi mua ma tuý nên Cơ quan điều tra không đặt ra vấn đề
xử lý đối với anh T, đồng thời đã trao trả chiếc xe cho anh T.
Bản cáo trạng số 13/CT-VKS-ML ngày 14 tháng 3 năm 2024, Viện kiểm sát
nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo Trần Quý H về tội “Tàng
trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình
sự; xác định bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng, được hưởng tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm
s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà: Bị cáo H khai nhận việc nắm giữ ma tuý để sử dụng là vi
phạm pháp luật; bản kết luận giám định đối với 02 gói ma tuý bị Công an thu giữ
là đúng; Viện kiểm sát truy tố là không oan. Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên
quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Quý H
phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; căn cứ áp dụng điểm c khoản 1 Điều
249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng
tù; căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật
chứng đã thu giữ. Bị cáo nhận tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ
hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mỹ
Lộc cũng như Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc cũng như
Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền,
trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố
và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định
tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều
hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy lời khai bị cáo tại phiên toà phù
3
hợp với các chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người
phạm tội quả tang; bản kết luận giám định chất ma tuý; lời khai người chứng kiến
cũng như toàn bộ lời khai bị cáo tại cơ quan điều tra. Từ các tình tiết chứng cứ
này đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 20 phút ngày 22 tháng 01 năm 2024,
tại đường trục thôn X, xã T, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, Trần Quý H đang
nắm giữ trong tay 0,224 gam Heroine với mục đích để sử dụng thì bị Tổ công tác
Công an xã T, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định bắt quả tang. Viện kiểm sát nhân
dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất
ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ,
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị
cáo Trần Quý H là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã xâm phạm quy định về quản
lý các chất ma tuý của Nhà nước, là khách thể được pháp luật nghiêm cấm các
hành vi tàng trữ, vận chuyển và mua bán trái phép. Ma tuý hiện đang là hiểm hoạ
của nhân loại bị xã hội lên án và loại trừ, bởi nó là nguyên nhân dẫn đến sự tha
hoá về đạo đức, suy thoái về giống nòi, là nguy cơ tiềm ẩn làm phát sinh ra các
loại tội phạm khác. Bản thân bị cáo là người bình thường về thể chất và tâm thần,
nhận thức rõ được tác hại của ma tuý bị pháp luật nghiêm cấm nhưng do sống
buông thả, không chịu rèn luyện tu dưỡng nên dẫn đến nghiện hút để rồi phải lệ
thuộc vào ma tuý và hậu quả tất yếu là dấn thân vào con đường phạm tội. Bị cáo
là người có đầy đủ năng lực hành vi nên sẽ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước
pháp luật về hành vi phạm tội của mình.
[4] Về trách nhiệm hình sự: Xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi,
khách thể được pháp luật Nhà nước bảo hộ bị xâm phạm, động cơ mục đích phạm
tội của bị cáo, hậu quả nguy hại cho xã hội của bị cáo thì việc cần thiết phải áp
dụng biện pháp cách ly xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục là thoả
đáng; đồng thời cũng mới đáp ứng được yêu cầu răn đe, giáo dục phòng ngừa
chung. Tuy nhiên, xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo không có tình tiết nào bị
coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; quá trình khai báo bị cáo thành
khẩn, nhận thức lỗi lầm ăn năn hối cải đó là tình tiết được Hội đồng xét xử xem
xét vận dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình
phạt cho bị cáo được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước. Xét
mức án Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là tương xứng, Hội đồng xét
xử chấp nhận đề nghị này và sẽ ấn định một mức hình phạt cụ thể, đủ để cải tạo bị
cáo hoàn lương trở về hoà nhập với cuộc sống cộng đồng làm người có ích cho
gia đình và xã hội.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bản thân bị cáo là người mắc tệ nạn nghiện ma
tuý; mục đích tàng trữ ma tuý chỉ để sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu bản thân,
không có mục đích mua bán để kiếm lời nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt tiền
đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng của vụ án: Số ma tuý sau khi được Phòng kỹ thuật hình sự
Công an tỉnh Nam Định kết luận giám định hoàn trả là Heroine bị Nhà nước
nghiêm cấm nên cần phải tịch thu để tiêu huỷ.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
4
QUYẾT ĐỊNH:
1. Tuyên bố bị cáo Trần Quý H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Căn cứ áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật
hình sự;
Xử phạt bị cáo H 20 (Hai mươi) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ,
ngày 23 tháng 01 năm 2024.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố
tụng hình sự;
Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma tuý vật chứng của vụ án đã được Phòng kỹ
thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn lại sau kết luận giám định và niêm
phong số 382/KL-KTHS theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập
ngày 15 tháng 3 năm 2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Lộc, tỉnh
Nam Định.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15
ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Bị cáo;
- VKSND huyện Mỹ Lộc;
- Công an huyện Mỹ Lộc;
- Trại giam CA tỉnh Nam Định;
- Chi cục THADS huyện Mỹ Lộc;
- Hồ sơ vụ án;
- Lưu: VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
(Đã ký)
Nguyễn Văn Quang
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 02/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 26/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 21/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 21/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 19/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 19/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm