Bản án số 122/2025/DS-PT ngày 17/09/2025 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 122/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 122/2025/DS-PT ngày 17/09/2025 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hải Dương
Số hiệu: 122/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Vũ Thanh C-Nguyễn Thị k
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Bản án số: 122/2025/DS-PT
Ngày: 17-09-2025
Về việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Phạm Thúy Hằng
Các Thẩm phán: Bà Quách Thị Phương Thúy và ông Bùi Thế Hưng.
- Thư phiên toà: Ông i Hải Long - TTòa án nhân dân thành
phố Hải Phòng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia phiên
a: i Thị Hậu - Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 09 năm 2025, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố Hải
Phòng xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sthụ số 38/2025/TLPT-DS ngày
04 tháng 06 năm 2025 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 10/2025/DS-ST ngày 26-04-2025 của Tòa án
nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương nay Khu vực 9 - Hải Phòng bị
kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 94/2025/QĐ-PT ngày 11 tháng 07
năm 2025, Các Quyết định hoãn phiên toà, Thông báo thay đổi thời gian, địa điểm
mở phiên tòa, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Vũ Thanh Ch, sinh năm 1953 và bà Nguyễn Thị Kh,
sinh năm 1954;
Địa chỉ: KDC Nt1, phường SĐ, TP. Chí Linh, tỉnh Hải Dương nay
phường Chu Văn An, thành phố Hải Phòng.
Ông Ch Kh đều vắng mặt.
- Người đại diện theo ủy quyền của ông Ch: Ông Phan Tùng L - địa chỉ: Số
61, phố Nhân Hòa, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân nay phường Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội. Có mặt.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Phạm Văn
Đ - Trợ giúp viên pháp thuộc Trung tâm trợ giúp pháp Nhà nước tỉnh Hải
Dương nay là thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.
- Bđơn: Bà Nguyn Th Đ, sinh năm 1948; Địa chỉ: S nhà 2, ngõ 2, phNH,
KDC Nt1, phưng SĐ, thành phố Chí Linh, tnh Hi Dương nay là png Chu Văn
An, tnh phHi Phòng. Vắng mặt.
- Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn:
+ Chị Trần Thị O - sinh năm 1981.
Địa chỉ: Số 5TT9, Foresa 1A, khu đô thị Tasco Xuân Phương, thành phố
Hà Nội. Vắng mặt.
+ Chị Thị Ch, sinh năm 1990. Địa chỉ: KDC Trụ Thượng, phường Đồng
Lạc, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương nay phường Lê Đinh, tnh ph
Hải Phòng. Có mặt.
- Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Thị H- sinh năm 1979. Địa
chỉ: Số nhà 02, ngõ 2, đường NH, KDC Nt1, phường SĐ, thành phố Chí Linh,
tỉnh Hải Dương nay là png Chu Văn An, thành phHi Png. Vắng mặt.
- Người đại diện theo ủy quyền của chHà: Chị Thị Ch- sinh năm 1990.
Địa chỉ: KDC Trụ Thượng, phường Đồng Lạc, thành phố Chí Linh, tỉnh
Hải Dương nay là phường Lê Đi Hành, thành phHi Phòng. mặt.
* Những người làm chứng:
+ Ông Nguyễn Hữu S; sinh năm 1949;
+ Ông Vũ Đức D; sinh năm 1956;
+ Bà Nguyễn Thị H; sinh năm 1940;
+ Ông Hoàng Văn Hu; sinh năm 1958;
+ Ông Vũ Văn Th; sinh năm 1950;
+ Ông Bùi Hồng Thh; sinh năm 1940;
+ Bà Nguyễn Thị Tt; sinh năm 1958;
+ Ông Vũ Văn Đg; sinh năm 1948;
+ Ông Nguyễn Tấn Đt; sinh năm 1949;
Đu vắng mặt.
- Ngưi kháng cáo: Nguyên đơn Ông Vũ Thanh Ch .
- Bn án không b kháng ngh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Tại Đơn khởi kiện, quá trình tố tụng nguyên đơn ông Vũ Thanh Ch và bà
Nguyễn Thị Kh trình bày: Ông kết hôn năm 1978 02 con chung. Tháng
7/1981, bà Kh cán bộ y tế của Bệnh viện Chí Linh đã làm “Đơn xin cấp đất làm
nhà ở” cho gia đình tại vị trí “một mảnh đất khu chợ cũ”. Đơn của đã được
các cấp xét duyệt, nhưng điều chỉnh vị trí cấp đất là: “tại khu Ban II (theo
đồ quy hoạch chung), diện tích 150m
2
”. Ông Ch chưa nhìn thấy sơ đồ quy hoạch
bao giờ. Sau đó gia đình ông đã được ông Hoàng Văn Hu - cán bộ của phòng
xây dựng UBND huyện ông Văn Th- phó chủ tịch UBND thị trấn SD
(cũ) trực tiếp đo đạc giao diện tích đất này cho gia đình bà Kh. Diện tích lúc
đó khu Ban II nay ngõ 2 đường NH, tổ 7, phố Nt1, phường nay phường
Chu Văn An. Sau khi được cấp đất, do gia đình khó khăn nên ông không xây
nhà trên đất. Cuối năm 1982, Đg tự ý xếp gạch, gác que, làm bếp tạm, trồng
rau trên diện tích đất này. Ông đã ý kiến nhưng Đg xin sử dụng nhờ
gia đình bà Đg khó khăn nên ông đồng ý cho mượn. Năm 1996, khi gia đình
ông bà có nhu cầu sử dụng đất nên đã xây tường bao thì Đg không đồng ý trả
lại đất, phá dỡ tường bao của gia đình ông tự ý xây tường bao khác bao quanh
cả diện tích 150m
2
này. Ông đã nhiều lần làm đơn trình báo tới chính quyền
địa phương nhưng do bà Đg không hợp tác nên không giải quyết được. Thửa đất
150m
2
thửa đất duy nhất của gia đình ông được nhà nước cấp, không thu
tiền. Hiện nay, gia đình ông đang tại thửa đất 80m
2
đấu thầu của phường
Cộng Hòa. Nay ông khởi kiện yêu cầu: Xác định toàn bộ diện tích đất 150m
2
tại địa chỉ ngõ 2 NH, tổ 7, KDC Nt1, phường , thành phố Chí Linh đã được
UBND huyện Chí Linh (cũ) cấp cho Nguyễn Thị Kh vào sổ cấp đất số
25/XDCB ngày 04/3/1982 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông ; Buộc
Nguyễn Thị Đ phải trả lại toàn bộ diện tích đất nêu trên cho ông ; phải tháo dỡ,
di dời các công trình xây dựng trái phép trên đất cùng các loại hoa màu, vật nuôi
và các tài sản khác ra khỏi diện tích đất trên.
Quá trình xét xử thẩm, phúc thẩm trước đó ông Ch xác định Đg
công sức trong việc quản lý, duy trì, tôn tạo đất nên ông tự nguyện thanh toán trả
bà Đg khoản tiền từ 400.000.000đ đến 500.000.000đ.
- Bđơn Nguyễn Thị Đ trình bày: Năm 1979, công tác tại khu
tập thể ban II của trường Công nhân kỹ thuật điện Chí Linh (nay là ngõ 2, đường
NH, tổ 7, phố Nt1, phường SĐ, thành phố Chí Linh nay là phường Chu Văn An,
Hải Phòng). Năm 1987, Trường sáp nhập với Trường công nhân kỹ thuật điện Sóc
Sơn - Nội. Năm 1991, Trường nhượng bán thanh lý các nhà tập thể của
trường khu A (của Ban II), giao cho Trạm dịch vụ sản xuất kỹ thuật điện và dạy
nghề được quản khu đất ở tập thể khu A từ đường NH chạy dọc theo đường tàu
đến con suối chảy từ Lôi Động ra gồm 04 dãy nhà. Theo quyết định số 42/TDV
ngày 25/4/1991 của Trạm dịch vụ sản xuất kỹ thuật điện và dạy nghề đã nhượng
bán hai gian nhà số 1 tính từ đường tàu xuống (một gian đầu hồi phía Tây và một
gian tiếp giáp gian nhà Tuyết: Phía bắc giáp nhà Tuyết, phía Đông giáp
đường tàu, phía Nam giáp đường, phía tây giáp mương nước). Năm 1992 khi
đường tàu được xây dựng xong thì cạnh gian nhà của khu đá lăn và cát lấp
dày, cán bộ công nhân viên của trường cải tạo để trồng rau. Năm 1993, làm
đơn xin cấp đất được UBND thị trấn SD (cũ) đồng ý cho phép sử dụng mảnh
đất này. Năm 1996, ông Thanh Ch căn cứ vào Đơn xin đất làm nhà do vợ
ông là bà Nguyễn Thị Kh xin, được UBND huyện cấp cho 150m
2
đất tại khu ban
II, không rõ ranh giới cụ thể để yêu cầu gia đình bà phá dỡ bếp, xây tường chiếm
đất nhưng bà không đồng ý nhờ chính quyền địa phương can thiệp nên ông Ch
không vào nữa. Năm 2010, ông Lâm Kim Giáp, cán bộ Trường công nhân kỹ
thuật điện Chí Linh; ông Bùi Hồng Thh, phụ trách phòng lao động của trường;
ông Nguyễn Tấn Đt, trạm trưởng trạm sản xuất và các hộ dân liền kề đều xác định:
từ năm 1977, khu đất ban II do nhà trường quản lý, khi đó không có nhà dân nào
xin cấp đất, chỉ có gia đình bà và một số gia đình khó khăn được nhà trường cho
vào ở khu tập thể từ năm 1979 đến nay. Hàng năm, vẫn đóng tiền thuế đất cho
Nnước. Việc ông Ch, Kh cho rằng UBND huyện Chí Linh (cũ) đã giao diện
tích đất cho họ chính diện tích đất bà đang là không đúng không có căn cứ,
không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc đất.
Quá trình xét xphúc thẩm trước đó bà Đg xác định để giữ hòa khí cho hai
bên, nếu phía ông Ch Kh đồng ý nhận số tiền hợp thì gia đình bà schi trả
để hai bên xóa bỏ tranh chấp.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - chị Thị H trình bay: Chị
con gái duy nhất của bà Đg. ChHà sống cùng bà Đg trên thửa đất tranh chấp từ
bé, khi lấy chồng cũng làm nhà liền cạnh nhà với Đg. Do mẹ chị nghỉ hưu
sớm nên toàn bộ chi phí đổ đất, cải tạo xây dựng sân vườn, chuồng trại nuôi gà,
cây cối của chị đầu tư. Tại quá trình xét xử phúc thẩm chị đề xuất phương
án thỏa thuận nếu ông Ch Kh đồng ý không tranh chấp thì chị Hà sẽ trả số tiền
khoảng 400.000.000đ để giải quyết xong vụ việc.
- Những người làm chứng:
+ Ông Vũ Văn Th tại lời khai ngày 13/5/2021 và ngày 22/01/2022
(BL:151-152 241) trình bày: Ông phó chủ tịch UBND thị trấn SD (cũ) từ
tháng 9/1982 đến tháng 10/1989. Trình tự thủ tục xin cấp đất thời đó rất đơn giản,
chỉ cần người dân đơn xin xác nhận của UBND thị trấn, sau đó được chuyển
đến UBND huyện Chí Linh (cũ). UBND huyện đồng ý thì ghi xác nhận trực tiếp
vào đơn. Sau khi có phê duyệt cấp đất của UBND huyện thì Ủy ban thị trấn sẽ cử
cán bộ làm công tác địa chính xuống đo đạc, bàn giao đất cho người được cấp. Do
ban đầu Kh xin cấp đất nông nghiệp (đất chợ cũ - nay khu đất gần Trường
tiểu học Chu Văn An) nên có xác nhận của Hợp tác xã. thể thời điểm đó ông
Phó chủ tịch thị trấn SD, cán bộ địa chính thực hiện đo đạc hướng dẫn
Kh nhận đất chứ ông là lãnh đạo thì sẽ không trực tiếp đo đạc và bàn giao đất cho
gia đình bà Kh. Việc gia đình bà Kh có được bàn giao đất và có sử dụng thửa đất
này hay vị trí cụ thể thửa đất được cấp chỗ nào ông không nắm được. Cán bộ
địa chính, Chủ tịch UBND thị trấn Phó chủ tịch UBND huyện thời điểm đó
nay đều đã chết.
+ Ông Hoàng Văn Hu tại lời khai ngày 13/5/2021 (BL:153) trình bày:
Năm 1982, ông cán bộ Phòng xây dựng thuộc UBND huyện Chí Linh (cũ) được
giao nhiệm vụ theo dõi quy hoạch cấp đất cho các hộ dân. Tháng 7/1981,
phòng nhận được đơn xin cấp đất làm nhà của Nguyễn Thị Kh xác
nhận của Hợp tác xã, UBND thị trấn SD, xin cấp đất tại khu chợ nhưng do khu
này đã cấp cho các hộ khác hết nên UBND huyện đã điều chỉnh giao cho Kh
150m
2
đất tại khu ban II (là khu đất trước đây do trường nhiệt điện quản lý), vào
sổ cấp đất số 205/XDCB ngày 04/3/1982. Theo nội dung xác nhận cấp đất này thì
việc đo đạc, hướng dẫn Kh xây dựng do UBND thị trấn SD cử người đo đạc
và giao đất. Sơ đồ quy hoạch chung do thời gian đã lâu việc tách nhập các
quan, phòng ban nên không còn lưu giữ được.
+ Ông Bùi Hồng Thh tại lời khai ngày 24/7/2021 (BL:161-162) trình bày:
Ông Thịnh người phụ trách công tác tổ chức trường điện 1 đến năm 1985.
Trường điện 1 được giao quản lý, sử dụng khu đất Ban II thuộc Công ty điện lực
1. Diện tích đất có chiều dài giáp mặt đường NH khoảng 100m đến bờ suối chảy
ra từ khu dân Lôi Động. Ban II nhà cho công nhân viên, nhà kho để vật
liệu, ngoài ra còn có nđể dạy học. Năm 1986 trường điện 1 chuyển về khu Trại
Rổ, khi đó mới có chủ trương bán tài sản trên đất cho cán bộ công nhân viên của
trường. Còn thủ tục giao đất như thế nào thì ông không nắm được. Trước năm
1986, trường điện không hề cho bất kỳ ai là cán bộ công nhân viên của trường
hoặc người khác được cấp đất khu Ban II vì đây đất của tập thể trường. Sơ đồ
khu Ban II ông không có. Nguyễn Thị Đ công nhân của trường hoàn cảnh
khó khăn nên được trường tạo điều kiện chỗ sau đó được thanh cho 02
gian nhà tập thể. Trường điện 1 đã sáp nhập với trường công nhân kỹ thuật điện
Sóc Sơn, hiện nay có trụ sở ở Sóc Sơn. Ông Lâm Kim Giáp là hiệu phó đã chết.
+ Bà Nguyễn Thị Tt tại lời khai ngày 17/8/2021 (BL:163) trình bày:
Mơ là hàng xóm với bà Đg. Trước đây bà, Mơ và Đg đều công nhân
trường kỹ thuật điện 1. Năm 1991, trường điện sáp nhập với trường điện Sóc
Sơn - Nội thanh nhà tập thể của trường. Gia đình Tuyết, đều
cùng mua thanh lý 02 gian nhà tập thể. Bà Tuyết có 02 gian cạnh 02 gian nhà tập
thể của Đg. Phần đất trước khu nhà tập thể, Đg vẫn sdụng từ trước đến
nay để trồng hoa màu, chưa thấy ai vào đo đạc, chia đất. Cách đây khoảng hơn 10
năm ông Ch cho người vào xây tường bao sát nhà Đg nên hai nhà xảy ra
mâu thuẫn, Đg cho người dỡ tường. Tđó, ông Ch không xây dựng nữa.
Tuyếtđã từng tham gia hòa giải tranh chấp đất giữa gia đình bà Đg
ông Ch, xác định việc ông Ch tranh chấp không căn cứ. Vì năm 1981,
trường điện vẫn đang hoạt động nên không thể cấp đất của trường cho người ngoài
sử dụng được.
+ Ông Vũ Văn Đg tại lời khai ngày 08/9/2021 (BL:168) trình bày: Ông là
cán bộ địa chính phường nay phường Chu Văn An từ năm 1988 đến năm
2003, ông chưa khi nào tham gia giải quyết tranh chấp đất giữa gia đình ông Ch
Đg. Khu đất Ban II là do trường công nhân kỹ thuật điện Chí Linh quản lý
địa điểm tại phố NH, thuộc khu dân Nt1, phường . Sau khi trường sáp
nhập với trường điện ở Sócn- Hà Nội thì một snhà tập thể được bán thanh
cho cán bộ nhân viên của nhà trường. Đất của nhà trường cũng không bàn giao
cho Ủy ban thị trấn quản còn bàn giao cho Ủy ban huyện Chí Linh hay không
thì ông không biết. Trong thời gian ông làm việc chưa bao giờ đi giao đất cho ông
Ch, bà Kh. Sau năm 1993, một số hộ được bán thanh nhà làm đơn xin cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thì đội đo đạc của Sở địa chính tỉnh có đo và làm
thủ tục cho họ. Không có sơ đồ quy hoạch của Ban II. Việc bà Đg có đơn xin cấp
đất có xác nhận của bà Miên phó chủ tịch ông cũng không biết.
+ Ông Nguyễn Tấn Đt tại lời khai ngày 16/11/2021 (BL:200-202) trình
bày: Ông Đạt giáo viên của Trường công nhân kỹ thuật điện Chí Linh từ năm
1983 đến năm 1987. Trường được thành lập từ khoảng năm 1979-1980, công nhân
viên nhà trường khu tập thể tại khu Ban II (Ban II khu tập thể dành cho ng
nhân của Viện thiết kế Mỏ, chuyển giao lại cho Trường điện 1) thuộc phố Nt1,
phường Chí Linh hiện nay. Đg là nhân viên của trường nên cũng được ở
trong khu tập thể của trường. Năm 1987 trường sáp nhập với trường công nhân
kỹ thuật điện Sóc Sơn- Nội, chỉ còn lại Trạm sản xuất kỹ thuật dạy nghề
Chí Linh trực thuộc trường điện Sóc Sơn. Ông làm trạm phó từ năm 1987 đến
1990, làm trạm trưởng từ 1990 đến 1994. Năm 1994 trường công nhân kỹ thuật
điện Sóc Sơn quyết định giải thể Trạm sản xuất. Toàn bộ khu tập thể của trường
nhượng bán lại cho cán bộ của trường trước đó. Bà Đg được nhượng bán 02 gian
nhà của dãy nhà số 1 với giá 570.000đ theo văn bản số 42/TDV ngày 25/4/1991.
Trạm chỉ bán tài sản trên đất n đất thì người sử dụng phải tự làm thủ tục xin đất
với địa phương. Sau khi giải thể thì nhà trường bàn giao lại đất cho UBND thị
trấn SD, việc bàn giao không lập thành văn bản, không có tài liệu gì.
+ Ông Nguyễn Trung Vân Hiệu trưởng Trường Điện Chí Linh tnăm
1979 đến khi trường sáp nhập vào Trường điện Sóc Sơn năm 1987. Ông Vân được
cấp đất tại khu vực phía nam đường tàu, gần trường Tiểu học SD hiện nay cũng
thuộc khu vực Ban II. Sau khi đường tàu xây dựng xong thì đất khu đó do UBND
phường quản còn đất phía Bắc đường tàu (khu vực 3 dãy nhà tập thể cũ)
vẫn do trường điện quản lý. Việc tranh chấp giữa ông Ch, KhĐg diễn ra
từ năm 2010, lần ông tham gia hòa giải do phường tổ chức. Ông xác nhận trong
thời gian ông công tác tại trường thì không thấy việc ông Ch, Kh xin đất của
nhà trường. Mặt khác trong thời gian trường công nhân kỹ thuật điện Chí Linh
đang quản lý các khu tập thể thì không thể có việc người nào khác được giao đất
tại khu vực này vì đất của nhà trường quản lý.
+ Ông Vũ Đức D trình bày: Ông là trưởng khu dân cư Nt1, phường SĐ từ
năm 1999 đến 2015 nhiều lần tham gia hòa giải tranh chấp đất đai giữa ông Ch
Đg. Khoảng năm 1994-1995 ông có thấy ông Ch chở cát, vật liệu vào xây
tường nhưng xảy ra tranh chấp với bà Đg. Ông Ch chưa bao giờ đến đất này n
bà Đg thì lúc đầu trồng khoai lang sau đó trồng cây ăn quả trên đất.
+ Ông Nguyễn Hữu S tại lời khai ngày 18/11/2021 (BL:204) trình bày:
Ông là hàng xóm của Đg, công nhân của trường điện Chí Linh cũ. Đất của
gia đình ông cũng là đất thanh lý của trường. Việc tranh chấp giữa bà Đg và ông
Ch diễn ra khoảng sau năm 1990, ông Ch nhờ ông Sỹ dẫn sang nhà bà Đg để nói
chuyện đất đai, ông không chứng kiến việc nói chuyện như thế nào. Ông Ch
xây tường nhưng bị đổ sau đó không xây lại nữa, cũng không sử dụng diện tích
đất này.
+ Bà Nguyễn Thị H tại lời khai ngày 18/11/2021 (BL:205) trình bày:
có nghe bà Kh nói chuyện được cấp đất ở khu tập thể cũ nhưng cũng không thấy
Kh chuyển đến sống ở đây. Việc tranh chấp đất đai giữa bà Kh, ông Ch và bà
Đg không biết.
- Văn phòng đăng quyền sử dụng đất cung cấp: Theo bản đồ hiện
trạng được đo vẽ năm 2008, tờ bản đồ số 22 tại phường SĐ, thành phố Chí Linh
thì thửa đất của Nguyễn Thị Đ thửa đất số 52, diện tích 302,1m
2
. Thửa đất
này chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngoài ra văn phòng không
lưu giữ tài liệu nào khác liên quan đến thửa đất.
- UBND phường SĐ cung cấp: Thửa đất đang tranh chấp giữa ông Ch, bà
Kh với bà Đg một phần diện tích được đăng tại bản đđịa chính thị trấn SD
(nay phường SĐ) lập năm 1992-1993 tại thửa đất số 89, tờ bản đồ số 2, diện
tích 1.832m
2
, loại đất hoang do UBND thị trấn SD quản lý. Đến năm 2009 được
đăng ký bản đồ hiện trạng là thửa đất số 52, tờ bản đồ số 22, diện tích 302,1m
2
đăng ký mang tên bà Nguyễn Thị Đ, địa chỉ thửa đất: ngõ 2 đường NH, khu dân
Nt1, phường SĐ. Đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
UBND phường SĐ không còn lưu trữ hsơ liên quan đến thửa đất ttrước
năm 1993. Hiện nay còn lưu trữ: Bản đồ địa chính đo đạc năm 1992, xác nhận
năm 1993, sổ mục kê lập năm 1993, bản đồ hiện trạng đo đạc năm 2007, ký năm
2008, sổ mục kê năm 2009. Tại tờ bản đồ địa chính số 02 lập năm 1992-1993 có
thể hiện thửa đất số 192, diện tích 300, tên Đông được đăng ký biến động đo đạc
năm 2003-2004 tách ra từ thửa số 89.
Ngoài thửa đất đang tranh chấp, ông Ch, Kh Đg không còn thửa
đất nào khác tại phường SĐ. Tài liệu quy hoạch ban II của Trường Điện Chí Linh
cũ UBND phường không còn lưu trữ, việc giao đất cho người dân tại khu này ủy
ban cũng không còn lưu giữ bất kỳ sơ đồ, tài liệu nào.
Thủ tục cấp đất thời kỳ năm 1982 là khi người dân nhu cầu đất ở thì làm
đơn xin cấp đất, gửi hợp tác xã nông nghiệp SD, sau đó UBND thị trấn xác nhận
và chuyển đơn lên UBND huyện CLinh duyệt trực tiếp vào đơn của người dân.
Trường hợp của bà Nguyễn Thị Đ có đơn xin đất năm 1993 sau khi được UBND
thị trấn Dao Đỏ kiểm tra nếu đủ điều kiện xác nhận thì strình UBND huyện
Chí Linh ban hành Quyết định cấp đất.
Tại vị trí tranh chấp giải phóng mặt bằng thực hiện quy hoạch dự án
đường sắt Lim - Hạ Long. Do tranh chấp từ trước nên việc đo đạc, lập hồ
bồi thường và kiểm đếm cây cối hoa màu trên đất không được thực hiện theo luật
đất đai nên UBND phường không có hồ sơ.
Quan điểm của địa phương đã hòa giải nhiều lần từ năm 2015-2019, cung
cấp hồ sơ, tài liệu, Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
- Chi cục thuế thành phố Chí Linh cung cấp hồ sơ nộp thuế của Kh
Đg từ năm 2012 đến 2015. Trên tờ khai nộp thuế số liệu quản của quan
thuế cả hai người đều không ghi số thửa đất, diện tích đất tính thuế à 80m
2
cho
mỗi người. Từ năm 2016 đến nay các hộ đều được miễn nộp thuế sử dụng đất phi
nông nghiệp.
- Trường Cao đẳng Điện lực Miền Bắc cung cấp: Năm 1987 Trường Công
nhân Kỹ thuật điện Chí Linh được sáp nhập với Trường Công nhân Kỹ thuật điện
Sóc Sơn- nay Trường Cao đẳng Điện lực Miền Bắc. Khi sáp nhập toàn bộ tài
sản và tài liệu đều được lưu trữ tại trường ở Chí Linh. Đến năm 1991 theo quyết
định của cấp trên Trường Công nhân Kỹ thuật điện Sóc Sơn đã bàn giao toàn bộ
tài sản bao gồm cả đất đai tài sản trên đất cho huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
- Kết quả thẩm định tại chỗ lập ngày 17/7/2020 thể hiện:
Thửa đất Nguyễn Thị Đ đang quản lý có tổng diện tích 308,9m
2
các
cạnh: Phía Bắc giáp nhà bà Tuyết có chiều dài: 3,74 + 3,29 + 6,11 + 4,37m; phía
Đông giáp đường chiều dài: 10,06+ 0,51+5,33+4,5+4,98m; phía Nam giáp
đường NH chiều dài 9.08m; phía Tây giáp suối chiều dài:
4,32+6,38+7,58+0,38+1,8+4,42m. Trên đất có: 02 gian nhà diện tích 61,2m
2
, 01
bán mái lợp broxi măng diện tích 23,9m
2
, 01 sân gạch đỏ diện tích 64,2m
2
, phần
cuối sân là tường rào bằng bê tông có chiều dài 11,11m. Trên sân trồng 01 cây
nhãn, phía vườn trồng 01 cây vải, 01 cây na, 01 cây xoài, 01 cây ổi, 01 cây
chanh, ngoài ra còn trồng rau xanh.
Phần diện tích đất có tranh chấp đo vẽ theo sự chỉ mốc giới của ông Ch
diện tích 150m
2
có các cạnh như sau: Hướng Bắc cách tường nhà bà Đg 20cm có
chiều dài 10,11m. Hướng Đông giáp cổng đi vào nhà bà Đg và đường bê tông có
chiều dài 3,40+5,75+5,51m. Hướng Nam giáp vườn nhà bà Đg đang trồng rau
chiều dài 11,07m. Hướng Tây giáp suối có chiều dài 6,38+7,58m.
- Kết quả định giá tài sản xác định: Về đất: Đất tranh chấp thuộc vị trí 2,
nhóm B đường phố loại 3. Giá thị trường khoảng 5.000.000 đồng/m
2
đất ở, 80.000
đồng/m
2
đất vườn. Về công trình kiến trúc trên đất: Sân lát gạch, lán, trụ cổng,
tường bao đã hết khấu hao, giá trị 0 đồng. Cây nhãn, cây na, cây xoài, cây vải,
tổng giá trị 3.680.000 đồng.
Vụ án đã được xét xử sơ thẩm theo bản án số 08/2022/DSST ngày
16/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Chí Linh. Do kháng cáo kháng
nghị nên bản án đã bị hủy theo Bản án phúc thẩm số 07/2024/DSPT ngày
22/01/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.
Quá trình thụ lý giải quyết lại theo trình tự sơ thẩm: Các bên đương sự giữ
nguyên quan điểm đã trình bày có tại hồ sơ; không đnghị thẩm định, định gtài
sản tranh chấp, không cung cấp thêm tài liệu chứng cứ mới, không yêu cầu đưa
người tham gia tố tụng.
Bản án thẩm số 10/2025/DS-ST ngày 26/04/2025 của Tòa án nhân dân
thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương nay là Khu vực 9 - Hải Phòng đã quyết định:
- Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Kh.
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Thanh Ch về việc xác
định diện tích đất 150m
2
tại địa chỉ ngõ 2, đường NH, tổ 7, KDC Nt1, phường ,
thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Duơng thuộc quyền sử dụng của ông Ch và bà Kh;
Buộc bà Nguyễn Thị Đ phải trả lại toàn bộ diện tích đất nêu trên cho ông Ch, bà
Kh; Buộc Nguyễn Thị Đ phải tháo dỡ, di dời các công trình xây dựng trái phép
trên đất ng các loại hoa màu, vật nuôi và các tài sản khác ra khỏi diện tích đất
trên.
Ngày 07/5/2025, ông Ch kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Lý do:
1. Bản án đình chỉ yêu cầu khởi kiện của Kh là không đúng theo điểm a
khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự. Phiên tòa ngày 26/4/2025, Kh văn
bản không ủy quyền cho ông Ch tham gia ttụng mà muốn tự mình tham gia tố
tụng tại phiên tòa. Bà Kh đã có đơn đề nghị hoãn phiên tòa nhưng Tòa án không
chấp nhận. Trong khi đó đây là phiên tòa được mở sau khi ngừng phiên tòa ngày
17/4/2025 để các bên hòa giải với nhau.
2. Tại đơn đề nghị giải quyết tranh chấp đất đề ngày 25/5/2009, Kh đã
nêu vị trí đất được cấp, đã được cán bộ thị trấn SD, UBND huyện Chí Linh ()
trực tiếp đo đạc và bàn giao cho gia đình, tứ cận như sau: Phía Bắc giáp nhà ông
Mịch, phía nam giáp đường tàu, phía đông giáp căn hộ tập thể của trường CNKT
điện Chí Linh (sau năm 1991 đã bán cho bà Đg), phía tây giáp đường nhựa. Mặt
sau tờ đơn xác nhận của ông Huấn, ông Thành, ông Vân nội dung: UBND
huyện Chí Linh cấp đất cho bà Kh tại khu ban II diện tích 150m
2
vị trí như
trong đơn Kh trình bày đúng sự thật. Đây xác nhận khách quan khi vụ việc
chưa phát sinh tại Tòa án, chưa bị tác động bởi các yếu tố khác.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người đại diện của nguyên đơn giữ nguyên các nội dung đã trình bày tại
cấp thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn. Việc bị đơn hỗ trợ nguyên đơn 200.000.000đồng là việc của bị đơn,
nguyên đơn không có ý kiến gì.
Người đại diện theo ủy quyền của Đg chị Hà không chấp nhận toàn
bộ yêu cầu của nguyên đơn, giữ nguyên các nội dung đã trình bày tại cấp thẩm.
Đề nghị cấp phúc thẩm giữ nguyên Bản án dân sự thẩm. Tự nguyện hỗ trợ
nguyên đơn số tiền 200.000.000đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến:
Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
từ khi thụ đến khi xét xử. Các đương sự chấp hành đúng quy định của pháp
luật. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ
nguyên bản án sơ thẩm. Chấp nhận sự tnguyện của bị đơn hỗ trợ nguyên đơn số
tiền 200.000.000đồng. Ông Ch được miễn nộp án phí dân sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về sự vắng mặt của các đương sự không kháng cáo tại phiên toà
nhưng đã mặt người đại diện theo ủy quyền; Kh vắng mặt lần thứ hai không
do, mặc đã được Toà án triệu tập hợp lệ. Căn cứ vào Điều 296 của Bộ
luật Tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt họ.
[2] Xác định tính hợp lệ của kháng cáo: Yêu cầu kháng cáo của ông Ch đề
nghị hủy toàn bộ bản án thẩm số 10/2025/DS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2025
của Tòa án nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương nay Khu vực 9 - Hải
Phòng. Xét thấy, nguyên đơn kháng cáo trong hạn luật định, nên được xem xét
theo trình tự phúc thẩm.
[3] Xét kháng cáo của nguyên đơn vnội dung cấp thẩm đình chỉ giải
quyết yêu cầu của Kh: Ngày 10/02/2020, Kh ủy quyền cho ông Ch “trực
tiếp làm việc tại tòa”. Ngày 26/4/2025, bà Kh đơn từ chối ủy quyền cho ông
Ch và vắng mặt tại phiên tòa không có người đại diện. Qua xét xử phúc thẩm
lần 1 và sơ thẩm lần 2, Kh không có văn bản chấm dứt việc ủy quyền nên xác
định Kh vẫn tiếp tục ủy quyền cho ông Ch. Ông Ch đã nhận Quyết định đưa
vụ án ra xét xử. Phiên tòa ngày 27/3/2025, ông Ch Kh vắng mặt không
do. Cấp sơ thẩm đã gửi Quyết định hoãn phiên tòa cho cho người bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp cho ông Ch là ông Lâm và ông Điều. Phiên tòa mở lại vào ngày
17/4/2025: Ông Ch, bà Kh, ông Lâm vắng mặt không có lý do; ông Điều có mặt.
Theo đề nghị của các đương sự mặt tại phiên tòa, Hội đồng xét xử ngừng phiên
tòa để các đương sự thỏa thuận với nhau. Phiên tòa mở lại ngày 26/4/2025, ông
Ch có mặt, Kh vắng mặt không có lý do, bà Kh có văn bản chấm dứt ủy quyền
cho ông Ch đ nghị Tòa án triệu tập Kh ra phiên tòa để bà ttrình bày
quan điểm. Ông Lâm vắng mặt và có đơn đề nghị hoãn phiên tòa vì phải dự đám
tang bà mợ ở xa. Quá trình giải quyết vụ án, phía nguyên đơn nhiều lần xin hoãn
hoặc ngừng phiên tòa, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Kh người
bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn ông Lâm vắng mặt tại phiên tòa mặc đã
được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Do đó, cấp thẩm vẫn tiến hành xét xử vụ án
là đúng quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, bà Kh
ông Ch vchồng, thửa đất đang tranh chấp nếu thuộc quyền sử dụng của
ông Ch, bà Kh thì đó là tài sản chung hợp nhất của vchồng. Cấp thẩm căn cứ
điểm a khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ yêu cầu khởi kiện của
Kh không đúng. vậy, căn cứ chấp nhận nội dung kháng cáo này của
ông Ch.
[4] Xét kháng cáo của nguyên đơn vnội dung hủy bản án hoặc sửa bản án
dân sự thẩm theo hướng chấp nhận toàn byêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[4.1]. Về nguồn gốc diện tích đất đang tranh chấp: Theo bản đồ địa chính thị
trấn SD nay phường Chu Văn An lập năm 1992-1993, thửa đất đang tranh chấp
nằm trong thửa số 89, tờ bản đồ số 2, diện tích 1.832m
2
thể hiện là đất hoang do
UBND phường SĐ (cũ) quản lý. Căn cứ bản đồ hiện trạng năm 2009: thửa đất
số 52, tờ bản đồ số 22, diện tích 302,1m
2
đăng tên Nguyễn Thị Đ, địa chỉ
thửa đất: Ngõ 2, đường NH, khu dân Nt1, phường nay phường Chu Văn
An, thành phố Hải Phòng. Đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thửa đất này trước đây thuộc khu Ban II, do Trường công nhân kỹ thuật điện Chí
Linh quản lý, sử dụng từ năm 1977 đến năm 1992 bàn giao lại cho UBND huyện
Chí Linh (cũ).
[4.2]. Căn cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo của
nguyên đơn:
[4.2.1]. Tại “Đơn xin cấp đất làm nhà ở” lập tháng 7/1981 được Hợp tác
nông nghiệp thị trấn SD (cũ) xác nhận ngày 11/7/1981. Ngày 14/7/1981, UBND
thị trấn SD chuyển UBND huyện Chí Linh với nội dung đề nghị UBND huyện
cấp đất khu chợ để Kh được làm nhà ”. Ngày 04/3/1982, UBND huyện
Chí Linh đã duyệt cấp đất cho bà Kh vào sổ cấp đất số 25/XDCB với nội dung:
“Đồng ý điều chỉnh đất cho Nguyễn Thị Kh tại khu ban II (theo sơ đồ quy
hoạch chung), diện tích được sử dụng là 150m
2
…UBND thị trấn SD cử người đo
đạc hướng dẫn Kh xây dựng”. Như vậy, ông Ch Kh một trong các
loại giấy tờ lập trước ngày 15/10/1993 theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 100
Luật Đất đai năm 2013 hướng dẫn tại khoản 6 Điều 18 Nghị định 43/2014/NĐ-
CP của Chính phủ. Tuy nhiên, “sơ đồ quy hoạch chung” không còn lưu trữ được,
thửa đất được cấp cho Kh không sơ đồ, vị trí, kích thước của thửa đất, không
hồ giao đất; Kh, ông Ch cũng không sdụng thửa đất đang tranh chấp
ổn định, công khai liên tục, phù hợp với quy hoạch, không có tên trong hồ sơ địa
chính tại địa phương.
[4.2.2]. Qua cung cấp của cán bộ, lãnh đạo của Trường công nhân kỹ
thuật điện Chí Linh như: Ông Lâm Kim Giáp, ông Bùi Hồng Thh, ông Nguyễn
Tấn Đt, Nguyễn Thị Tt; cung cấp của địa phương thì thấy: Thời điểm ngày
04/03/1982, diện tích đất đang tranh chấp thuộc Ban II, là đất tập thể do Trường
công nhân kỹ thuật điện Chí Linh quản ; chưa quyết định thu hồi của quan
thẩm quyền; không được cấp, giao cho người không phải cán bộ của trường.
Năm 1992, khi trường giải thmới bàn giao cho UBND thị trấn SD quản . Việc
UBND huyện Chí Linh (cũ) xác nhận vào Đơn xin cấp đất làm nhà của Kh
với nội dung “đồng ý điều chỉnh đất cho Kh tại khu ban II theo đồ quy
hoạch chung” là chưa đúng quy định của pháp luật.
[4.2.3] Tại Đơn đnghị về việc giải quyết tranh chấp đất đề ngày
25/5/2009, Kh tự xác định vị tđất của gia đình được cấp là: Phía Bắc giáp
nhà ông Mịch, phía Nam giáp đường tàu, Phía Đông giáp căn hộ tập thể của
Trường công nhân kỹ thuật điện CLinh (năm 1991 đã bán thanh cho gia đình
Đg), Phía Tây giáp đường nhựa (đường vào trường lái xe quân đội nay
đường NH); Đơn xác nhận của ông Nguyễn Trung Vân, ông Hoàng Văn Hu,
ông Văn Th, đóng dấu xác nhận của UBND huyện Chí Linh Đảng ủy
thị trấn SD tại mặt sau tđơn này. Tuy nhiên, Kh ông Ch không căn cứ
chứng minh đã được các quan thẩm quyền công nhận cho ông Ch Kh
được quyền sử dụng, quản hợp pháp thửa đất có tứ cận nêu trên. Trong khi đó:
Ông Vân xác nhận vào đơn với nội dung Năm 1982 gia đình bà Kh được chia
cùng gia đình tôi trên đất như trong đơn Kh trình bày đúng sự thật”.
Nhưng thửa đất của ông Vân ở phía bên kia đường tàu (Ban II- khu A) và có tên
trong bản đồ sổ mục kê năm 1992-1993 tại thửa số 86 tờ bản đồ số 2, không
nằm cùng với thửa đất đang tranh chấp. Ông Thành trình bày do xác nhận
vào đơn ngày 25/5/2009 cho ông Ch, Kh là để giải quyết tranh chấp đất theo
đề nghị của Kh, Ch. Ông Thành, ông Huấn đều không trực tiếp giao đất cho
ông ChKh.
[4.3]. Đg được thanh 02 gian nhà tập thể theo văn bản số 42/TDV
ngày 25/4/1991 nằm giáp diện tích đất đang tranh chấp trực tiếp quản lý, sử
dụng diện tích đất đang tranh chấp từ năm 1977 đến nay. Ngày 30/02/1993, Đg
có đơn xin cấp đất và đã được UBND thị trấn SD xác nhận. Đồng thời, bà có tên
tại hồ sơ địa chính từ năm 1992-1993 của UBND thị trấn SD đến nay.
[4.4]. Ông Ch cho rằng cuối năm 1982, bà Đg tự ý xếp gạch, gác que, làm
bếp tạm, trồng rau trên diện tích đất này thì vợ chồng ông đã có ý kiến nhưng
Đg mượn, xin sử dụng nhờ vì gia đình khó khăn nên vợ chồng ông đã đồng ý.
Đg không thừa nhận có việc này. Ngoài lời trình bày, ông Ch Kh cũng không
cung cấp được chứng cứ để chứng minh.
[4.5]. Ông ChKh cung cấp giấy tờ nộp thuế đất từ năm 2012 đến 2015
tài liệu cung cấp thông tin của Chi cục thuế thành phố Chí Linh (cũ) thể hiện
diện tích đất ông nộp thuế 80m
2
, không thông tin thửa đất. Không xác
định được có phải là nộp thuế đối với thửa đất đang tranh chấp hay không.
[4.6]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn tự nguyện hỗ trợ ông Ch, Kh số
tiền 200.000.000đồng. Xét đây sự tự nguyện của bị đơn không trái pháp luật,
không vi phạm đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử chấp nhận
[4.7]. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy nguyên đơn kháng cáo
yêu cầu hủy bản án dân sự sơ thẩm hoặc sửa bản án dân sự thẩm theo hướng
sửa bản án dân sự thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn nhưng
không xuất trình được thêm chứng cứ mới có giá trị chứng minh nội dung kháng
cáo của mình là có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử không chp nhn
nội dung kháng cáo này của nguyên đơn.
[5]. Kháng cáo của ông Ch được chấp nhận một phần nên không phải chíu
án phí dân sự phúc thẩm.
[6] Các Quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị, cấp phúc thẩm không xét và đã có hiệu lực kể từ khi hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ: Khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ: Điều
164, Điều 166 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 166, Điều 170, Điều 203 Luật Đất đai
2013; ngày 30/12/2016 củay ban Tng vQuc hi, quy đnh v mc thu, miễn,
giảm, thu, np, quản lý và s dụng án phí và lp Tòa án.
2. Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Vũ Thanh Ch.
3. Sửa Bản án dân sự thẩm 10/2025/DS-ST ngày 26/04/2025 của Tòa án
nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương nay là Khu vực 9 - Hải Phòng.
4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Thanh Ch
Nguyễn Thị Kh về việc xác định diện tích đất 150m
2
tại địa chỉ ngõ 2, đường
NH, tổ 7, KDC Nt1, phường SĐ, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Duơng nay
phườn Chu Văn An, thành phố Hải Phòng thuộc quyền sử dụng của ông Ch và bà
Kh; Buộc Nguyễn Thị Đ phải trả lại toàn bộ diện tích đất nêu trên cho ông Ch,
Kh; Buộc Nguyễn Thị Đ phải tháo dỡ, di dời các công trình xây dựng trái
phép trên đất cùng các loại cây cối, hoa u, vật nuôi và các tài sản khác ra khỏi
diện tích đất trên.
5. Về chi phí tố tụng: Ông Ch Kh phải chịu 4.500.000đ tiền chi phí
xem xét, thẩm định tại chỗ và chi phí định giá tài sản (đã nộp và chi xong).
6. Chấp nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị Đ hỗ trợ ông Vũ Thanh Ch
và bà Nguyễn Thị Kh số tiền 200.000.000đồng.
7. Về án phí: Ông Vũ Thanh Ch không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
8. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày
hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
9. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật
thi hành án dân sự, thời hiệu yêu cầu Thi hành án được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
-VKSNDTP Hải Phòng;
- TAND Khu vực 9;
- THADS Khu vực 9;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Thúy Hằng
Tải về
Bản án số 122/2025/DS-PT Bản án số 122/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 122/2025/DS-PT Bản án số 122/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất