Bản án số 10/2025/HNGĐ-ST ngày 19/08/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 8 - Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 10/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 10/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 10/2025/HNGĐ-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 10/2025/HNGĐ-ST ngày 19/08/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 8 - Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 8 - Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình |
| Số hiệu: | 10/2025/HNGĐ-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 19/08/2025 |
| Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | chị H xin ly hôn anh Th |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 8
TỈNH NINH BÌNH
Bản án số: 10/2025/HNGĐ-ST
Ngày 19-8-2025
“V/v Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 8 – NINH BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán chủ toạ phiên toà: Bà Bùi Thị Gấm.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Nguyễn Trọng Tảo.
2. Bà Trương Thị Dung.
- Thư ký phiên tòa: Bà Bùi Kiều Trang – Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
Khu vực 8 – Ninh Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Khu vực 8 – Ninh Bình tham gia phiên
tòa: Ông Đỗ Văn Thảo - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 8 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân Khu vực 8 - Ninh
Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 49/2025/TLST-HNGĐ ngày 08
tháng 5 năm 2025 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử số: 04/2025/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 8 năm 2025, giữa
các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phan Thị H, sinh ngày 13 tháng 10 năm 1983; CCCD
số 036183016442, cấp ngày 16/7/2024; nơi cấp: Bộ Công an.
- Bị đơn: Anh Vũ Hữu Th, sinh ngày 18 tháng 11 năm 1981; CCCD số
036081012186, cấp ngày 25/04/2021; nơi cấp: Cục cảnh sát quản lý hành chính
về trật tự xã hội.
Cùng có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: thôn ĐB, xã Đ, huyện
V, tỉnh Nam Định nay là thôn ĐB, xã L, tỉnh Ninh Bình.
Tại phiên tòa: Vắng mặt chị H và anh Th.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình tham gia tố tụng tại
Toà án, nguyên đơn chị Phan Thị H trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thị H và anh Vũ Hữu Th tự nguyện tìm
hiểu và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện V, tỉnh Nam Định nay
2
là Uỷ ban nhân dân xã L, tỉnh Ninh Bình vào ngày 26 tháng 6 năm 2002. Vợ
chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2020 thì bắt đầu phát sinh mâu
thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do: Vợ chồng có quan niệm sống khác nhau,
bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng thường xuyên tranh luận, cãi nhau mà
không ai chịu nhường nhịn ai. Đặc biệt là anh Th bị nghiện rượu, thường xuyên
uống rượu và say rượu tối ngày, không làm được việc gì giúp đỡ gia đình, vợ con.
Chị H và anh Th thường xuyên cãi nhau và chị cảm thấy rất bị áp lực, căng thằng
khi sống cùng anh Th. Chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống từ tháng 12/2023,
khoảng 2 tháng sau thì bố mẹ và 2 bên gia đình đã hòa giải cho vợ chồng về đoàn
tụ, anh Th đã hứa và cam kết với chị là sẽ bỏ rượu nên chị H lại trở về chung sống
cùng anh Th. Tuy nhiên, chỉ được 1 thời gian ngắn thì anh Th lại tiếp tục uống
rượu và ngày càng bê tha hơn. Từ tháng 6/2024 đến nay, chị H và anh Th sống ly
thân, chấm dứt quan hệ tình cảm với nhau. Chị H nhận thấy vợ chồng chị không
thể hòa giải và không thể đoàn tụ được, chị không còn tình cảm tỉnh nghĩa vợ
chồng gì với anh Th và chị không có ý định quay về với anh Th. Do vậy chị H đề
nghị xin ly hôn với anh Th.
- Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung là cháu Vũ Tiến A, sinh
ngày 10-01-2004 và Vũ Phan A1, sinh ngày 01-01-2017. Hiện nay, cháu Vũ Tiến
A đã thành niên, có khả năng lao động tự lập được và đã lập gia đình nên chị
không đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết. Còn cháu Vũ Phan A1 đang sống cùng
với chị H. Ly hôn, chị đề nghị cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Vũ Phan
A1 và không yêu anh Th phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.
Hiện nay chị H đang làm công nhân may tại công ty TNHH may mặc Smart-
Shirt với mức thu nhập bình quân một tháng từ 13.000.000đ đến 14.000.000đ. Chị
H nhận thấy có đủ các điều kiện cần thiết để có thể trực tiếp nuôi dưỡng con
chung.
- Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ chung và những vấn đề khác có
liên quan: Chị H không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
2. Trong quá trình tham gia tố tụng tại Toà án, bị đơn anh Vũ Hữu Th trình
bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Qua sự tìm hiểu anh Vũ Hữu Th và chị Phan Thị H
đã tự nguyện đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện V, tỉnh Nam Định
nay là Uỷ ban nhân dân xã L, tỉnh Ninh Bình vào ngày 26 tháng 6 năm 2002. Vợ
chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến đầu năm 2025 thì bắt đầu phát sinh
mâu thuẫn. Mâu thuẫn thường xuyên xảy ra vì lý do: Vợ chồng có quan niệm sống
khác nhau, bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng anh thường xuyên tranh luận,
cãi nhau mà không ai chịu nhường nhịn ai. Ngoài ra thì anh thường xuyên đi uống
rượu say xỉn, mỗi lần uống rượu say về thì vợ chồng anh lại cãi nhau và có 1 lần
anh đánh chị H. Vợ chồng anh có ở nhờ nhà công vụ của trường THPT Nguyễn
3
Đức Thuận vì anh Th làm bảo vệ, trông coi trường học. Vợ chồng anh Th vẫn ở
cùng nhau tại nhà công vụ của trường THPT Nguyễn Đức Thuận, vợ chồng vẫn
ăn cơm cùng một mâm nhưng đã sống ly thân, không còn quan hệ tình cảm với
nhau từ đầu năm 2025 đến nay.
Do vợ chồng sống với nhau đã hơn 20 năm, tình cảm tình nghĩa của anh
dành cho chị H vẫn còn rất nhiều. Anh Th vẫn còn yêu thương chị H nhưng anh
Th chưa có biện pháp gì thể hiện tình cảm với chị H và chưa nói chuyện hòa giải
gì với chị H. Chị H xin ly hôn với anh, anh không đồng ý ly hôn với chị H. Anh
Th có nguyện vọng xin đoàn tụ gia đình.
- Về con chung: Vợ chồng anh có 02 con chung là cháu Vũ Tiến A, sinh
ngày 10-01-2004 và Vũ Phan A1, sinh ngày 02-01-2017. Hiện nay, cháu Vũ Tiến
A đã thành niên, có khả năng lao động tự lập được và đã lập gia đình nên anh Th
không đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết. Còn cháu Vũ Phan A1 đang sống cùng
với vợ chồng anh. Ly hôn, anh Th có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu
Vũ Phan A1 và không yêu chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh. Hiện
nay anh Th đang làm bảo vệ của trường THPT Nguyễn Đức Thuận với mức thu
nhập bình quân một tháng là 5.000.000đ/tháng. Anh Th nhận thấy có đủ các điều
kiện cần thiết để có thể trực tiếp nuôi dưỡng con chung.
- Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ chung và những vấn đề khác có
liên quan: Anh Th và chị H không có nên anh Th không yêu cầu Tòa án xem xét,
giải quyết.
3. Tại biên bản thu thập chứng cứ thể hiện:
3.1. Ủy ban nhân dân xã Thành Lợi, huyện V, tỉnh Nam Định nay là Uỷ
ban nhân dân phường Trường Thi, tỉnh Ninh Bình cung cấp như sau: Anh Th, chị
H không đăng ký hộ khẩu thường trú, không đăng ký tạm trú tại địa bàn xã Thành
Lợi. Hiện nay anh Th đang làm bảo vệ tại trường trung học phổ thông Nguyễn
Đức Thuận nằm trên địa bàn xã Thành Lợi và đang ở nhà công vụ của trường.
3.2. Ủy ban nhân dân xã L, tỉnh Ninh Bình cung cấp:
Chị H và anh Th có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã L, tỉnh Ninh Bình.
Anh chị tự nguyện đăng ký kết hôn với nhau ngày 21 tháng 12 năm 2015 tại Ủy
ban nhân dân xã Đ, huyện V, tỉnh Nam Định nay là Ủy ban nhân dân xã L, tỉnh
Ninh Bình theo quy định pháp luật. Từ khi đăng ký kết hôn với nhau anh chị sống
tại thôn ĐB, xã L được vài năm thì chuyển đến nhà công vụ của trường THPT
Nguyễn Đức Thuận sinh sống vì anh Th làm bảo vệ của trường. Tuy nhiên, anh
chị vẫn thường xuyên đi về thôn ĐB, xã L để thăm gia đình. Đầu năm 2025 thì
anh chị phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Th thường xuyên uống rượu
say xỉn và về gây sự mắng chửi vợ con. Anh chị đã sống ly thân và chấm dứt quan
hệ tình cảm với nhau chưa thì địa phương không nắm rõ. Anh chị có 02 con chung
là Vũ Tiến A, sinh ngày 10-01-2004 và Vũ Phan A1, sinh ngày 02-01-2017. Hiện
4
nay cháu Vũ Tiến A đã thành niên, có khả năng lao động tự lập được và đã lập
gia đình riêng còn cháu Vũ Phan A1 thì đang sống cùng với anh Thằng và chị H.
Về điều kiện nuôi con: Anh Th và chị H có đủ sức khỏe, điều kiện về thời gian,
kinh tế để trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Tuy nhiên, đề nghị Tòa án xem xét đến
nguyện vọng của con chung để xem xét giao con chung cho người phù hợp. Về
tài sản, công nợ và những vấn đề có liên quan: Các đương sự không đề nghị nên
địa phương không có ý kiến gì.
5. Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 8 – Ninh Bình tham gia phiên tòa
phát biểu ý kiến:
+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký Tòa án trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử và của Hội đồng xét xử tại phiên tòa, cũng như việc
chấp hành pháp luật của đương sự.
+ Về yêu cầu khởi kiện của đương sự: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào
các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của
Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện chị Phan Thị H,
cụ thể:
+ Về quan hệ hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Phan Thị H và anh Vũ Hữu Th.
+ Về con chung: Giao con chung Vũ Phan A1, sinh ngày 02-01-2017 cho
chị Phan Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi
cháu Vũ Phan A1 thành niên, có khả năng lao động, tự lập được. Anh Vũ Hữu Th
không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Phan Thị H. Còn con chung Vũ
Tiến A, sinh ngày 10-01-2004 đã thành niên, có khả năng lao động tự lập được
nên không xem xét, giải quyết.
+ Về tài sản, công nợ chung và các nội dung khác: Các đương sự không đề
nghị nên không đặt ra xem xét, giải quyết.
+ Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phan Thị H phải nộp theo quy định pháp
luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Anh Vũ Hữu Th và chị Phan Thị H đăng ký hộ khẩu thường
trú tại thôn Điện Biện, xã Đ, huyện V, tỉnh Nam Định nay là thôn ĐB, xã L, tỉnh
Ninh Bình. Như vậy, theo quy định tại các Điều 28, 35 và 39 của Bộ luật Tố tụng
dân sự thì vụ án dân sự về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” giữa chị H và
anh Th thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định
nay là Tòa án nhân dân khu vực 8 – Ninh Bình. Tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn
đều vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2
5
Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử
vắng mặt chị H và anh Th.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có
đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện V, tỉnh Nam Định (nay là xã L,
tỉnh Ninh Bình), vì vậy đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Tuy
nhiên, trong quá trình chung sống vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn và kéo dài,
anh chị đã sống ly thân và chấm dứt quan hệ tình cảm từ đầu năm 2025 đến nay.
Anh Th có nguyện vọng được đoàn tụ nhưng anh không có biện pháp gì để hàn
gắn hạnh phúc vợ chồng. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng chị H và anh Th đã trầm
trọng, cuộc sống chung không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được,
vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào các
Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H,
xử cho chị H được ly hôn với anh Th là phù hợp.
[3] Về con chung: chị H và anh Th có 02 con chung là cháu Vũ Tiến A,
sinh ngày 10-01-2004 và Vũ Phan A1, sinh ngày 02-01-2017. Cháu Vũ Tiến A đã
thành niên, có khả năng lao động tự lập được và các đương sự không đề nghị Tòa
án xem xét giải quyết. Chị H và anh Th cùng có nguyện vọng được nuôi cháu Vũ
Tiến A, không yêu cầu phải cấp dưỡng nuôi con chung. Hội đồng xét xử xét thấy:
Chị H và anh Th đều có công việc, có thu nhập ổn định nên có đủ các điều kiện
để được nuôi dưỡng con chung. Tuy nhiên qua lời trình bày của các đương sự và
qua xác minh tại địa phương thì thấy anh Th thường xuyên uống rượu, có lúc say
xỉn. Cháu Vũ Phan A1 cũng có nguyện vọng được ở cùng với chị H do đó Hội
đồng xét xử căn cứ vào các Điều 81, 82 của Luật hôn nhân và gia đình giao cháu
Vũ Phan A1 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp và đảm bảo đầy đủ các
điều kiện tốt nhất cho cháu. Do chị H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung
nên Hội đồng không đặt ra xem xét, giải quyết.
[4] Về tài sản chung, công nợ và những vấn đề khác có liên quan: Các
đương sự không đề nghị nên không đặt ra xem xét, giải quyết.
[5] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị H phải nộp theo quy định pháp luật.
[6] Về quyền kháng cáo: Chị H và anh Th được quyền kháng cáo bản án
theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;
khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Xử ly hôn giữa chị Phan Thị H và anh Vũ HữuThắng.
6
2. Về con chung: Giao con chung là cháu Vũ Phan A1, sinh ngày 02-01-
2017 cho chị Phan Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho
đến khi cháu Vũ Phan A1 thành niên, có khả năng lao động tự lập được.
Anh Vũ Hữu Th không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Phan Thị
H.
Anh Vũ Hữu Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản
trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng
xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
Cháu Phan Tiến Anh, sinh ngày 10-01-2004 đã thành niên, có khả năng lao
động tự lập được nên không xem xét, giải quyết.
3. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Phan Thị H phải nộp 300.000đ (Ba trăm
nghìn đồng) được đối trừ vào số tiền chị H đã nộp tạm ứng án phí, theo biên lai
thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0001024 ngày 08 tháng 5 năm 2025 của Chi
cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Nam Định; (Nay là Phòng thi hành án dân sự
khu vực 8 - Ninh Bình). Như vậy chị H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Chị H và anh Th có quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm
yết theo quy định của Bọ luật Tố tụng dân sự.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền tự nguyện thi hành án, thỏa thuận thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành
án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi
hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- TAND tỉnh Ninh Bình;
- VKSND tỉnh Ninh Bình;
- VKSND Khu vực 8 – Ninh Bình;
- Chi cục THADS tỉnh Ninh Bình;
- UBND xã L;
- Lưu VP, HSVA;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Thị Gấm
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 29/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 28/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 24/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 23/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 23/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 22/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 21/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 19/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 19/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 13/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 10/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 10/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm