Bản án số 10/2025/HC-ST ngày 05/09/2025 của TAND tỉnh Gia Lai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 10/2025/HC-ST

Tên Bản án: Bản án số 10/2025/HC-ST ngày 05/09/2025 của TAND tỉnh Gia Lai
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Gia Lai
Số hiệu: 10/2025/HC-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 05/09/2025
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Ông Rơ Châm Ch khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH GIA LAI
Bản án số: 10/2025/HC-ST
Ngày: 05/9/2025
“V/v Khiếu kiện yêu cầu hủy
giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – H1 phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ toạ phiên toà: Bà Đinh Thị Như Phượng
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Quốc Khánh
Ông Trần Minh Đức.
- Thư phiên toà: Nguyễn Thị Hương Giang - Thư Tòa án của
Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai tham gia phiên tòa: Ông
Hoàng Văn H1 - Kiểm sát viên.
Ngày 05 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử
sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 07/2025/TLST-HC ngày 21 tháng 4 năm 2025
về “Khiếu kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 109/2025/QĐXXST-HC ngày 20
tháng 8 năm 2025, giữa các đương sự:
Người khởi kiện: Ông Rơ Châm Ch.
Sinh năm: 1957
CCCD: 064057003009.
Địa chỉ: Làng Beng, xã C, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện I, tỉnh Gia Lai.
Địa chỉ trụ sở: S298 đường Hùng ơng, thtrấn K, huyện I, tỉnh Gia
Lai.
Người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của Ủy ban nhân dân huyện I,
tỉnh Gia Lai: Chủ tịch Ủy ban nhân dân C, tỉnh Gia Lai; Địa chỉ: Làng Biă,
xã C, tỉnh Gia Lai.
2
Người đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân C, tỉnh
Gia Lai: Ông Rah Lan Gâu – Chức vụ: Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã C, tỉnh
Gia Lai; Địa chỉ: Làng Biă, xã C, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Ksor B Puih Y. Ông Ksor B mặt, Puih Y vắng mặt
có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Ông Cao Duy H1 và bà Lê Thị H2. Có mặt.
Cùng địa chỉ: Làng Beng, xã C, tỉnh Gia Lai
- Ông Rơ Mah M và bà Puih J. Có mặt.
- Bà Puih B. Vắng mặt.
- Bà Puih S. Vắng mặt.
- Bà Puih L. Vắng mặt.
- Ông Puih T. Vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Làng Beng, xã C, tỉnh Gia Lai.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Mah M, Puih J, Puih B,
Puih S, Puih L, ông Puih T: Ông Trần Mạnh Đ; Địa chỉ: 1054 Hùng
Vương, tổ dân phố 12, xã S, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
- Người phiên dịch: Ông Siu V; Địa chỉ: Làng Biă, xã C, tỉnh Gia Lai. Có
mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Người khởi kiện là ông Rơ Châm Ch trình bày:
Năm 1997, ông ông Ksor B cùng khai hoang thửa đất tại Làng Beng,
C, huyện I, tỉnh Gia Lai. Cả hai thỏa thuận chia thửa đất trên thành 02 phần,
phần của ông diện tích khoảng 1.575m
2
, phần của ông Ksor B diện tích
khoảng 9.000m
2
. Sau khi khai hoang đất thì ông trồng điều trên đất. Đến năm
2008, ông chuyển nhượng cho vợ chồng ông Cao Duy H1 Thị H2
viết Giấy sang nhượng đất đề ngày 06/9/2008, có xác nhận của Ủy ban nhân dân
C. Tại Giấy sang nhượng đất thể hiện đất chiều rộng 15m mặt đường,
chiều sâu giáp vườn ông Dung B và có người làm chứngông Rơ Mah M (con
rể của ông Ksor B) có ký và xác nhận.
Sau khi nhận chuyển nhượng đất từ ông thì vợ chồng ông H1, bà H2 trồng
điều. Năm 2009, ông H1, H2 xây nhà trên đất. Đến năm 2024, ông Mah
M tự ý chặt phá cây điều và làm hàng rào bao quanh phần đất mà ông đã chuyển
nhượng cho ông H1, H2 ông M cho rằng đây đất của gia đình ông. Khi
Ủy ban nhân dân xã mời các bên đến làm việc giải quyết tranh chấp đất giữa ông
Rơ Mah M với vợ chồng ông H1, bà H2 thì ông M biết thửa đất của ông đã được
Ủy ban nhân dân huyện I, tỉnh Gia Lai (Nay Ủy ban nhân dân C, tỉnh Gia
3
Lai) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Ksor B. Sau khi khai
hoang đất cho đến nay, ông chưa làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất vì chưa có điều kiện.
Do đó, ông Châm Ch khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Hủy một
phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác
gắn liền với đất số U585620 do Ủy ban nhân dân huyện I, tỉnh Gia Lai cấp ngày
15/10/2001 cho người sử dụng đất hộ ông Ksor B đối với thửa đất số 29, tờ
bản đồ số 36, diện tích 1.808,6m
2
(theo biên bản xem xét thẩm định của Tòa
án) tại Làng Beng, C, huyện I, tỉnh Gia Lai (Nay Làng Beng, C, tỉnh
Gia Lai).
2. Người đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân n C
trình bày:
Thống nhất với ý kiến của Ủy ban nhân dân huyện I trình bày tại Công
văn số 734/UBND-NN&MT, ngày 29/5/2025 v/v cung cấp tài liệu chứng cứ cho
Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, cụ thể:
Hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất trên được thực hiện theo
diện cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất đại t cho nhân dân, được y
ban nn dân huyện đồng ý cấp giấy chứng nhận tại Quyết định số: 202/QĐ-
UBND ny 15 tháng 10 năm 2001 cấp cho 1008 ch sử dụng đất đang sử
dụng đất trên địa bàn xã C với tổng diện ch cấp giấy chứng nhận 12.492.507
m². Việc thực hiện hồ sơ: Hồ sơ được Ủy ban nhân dân C nm yết ng
khai, tchức xét duyệt và đnghị cấp giấy chứng nhận tại tờ trình s05/TT-
UB ngày 29 tháng 10 m 2001, chuyển phòng Địa chính huyện (nay png
Nông nghiệp và Môi trường) trình Ủy ban nhân n huyện tại Tờ trình số:
23/TT-ĐC ngày 08 tng 10 m 2001 đnghị cấp giấy chứng nhận theo quy
trình, quy định của Luật đất đai m 1993 và các văn bản ớng dẫn thi hành
tại thời điểm cấp giấy chứng nhận.
Đối với nội dung yêu cầu huỷ một phần giấy chứng nhận quyền sdụng
đất thuộc diện tích thửa đất số 29, tờ bản đsố 36: Qua kiểm tra hsơ tranh
chấp đất đai giữa ông Cao Duy H1 ông Mah M do Ủy ban nn dân xã
C thụ lý thhiện theo nội dung trình bày của Cao Duy H1, ông Rơ Châm Ch
ông Ksor B t diện tích đất tranh chấp do ông Cao Duy H1 đã sử dụng đất
trồng điều, nguồn gốc do ông Cao Duy H1 nhận chuyển nhượng tông
Châm Ch, ông Ch nhận chuyển quyền từ ông Ksor B, ông B được xã cấp. Vị
trí đất thuộc diện tích đã cấp giấy chứng nhận cho h ông Ksor B từ năm
2001, tại thời điểm này ông Rơ Châm Ch ng được cấp giấy chng nhận v
trí gần đó (thửa 17 tờ 36 cách khoảng 250 m) nhưng kng ý kiến , cho
thấy ông Ch kng tranh chấp, kng ý kiến việc cấp giấy chứng nhận cho
ông B.
Đối với việc tnh y của ông Rơ Mah M (con rể ông B) thì đất tranh
chấp do nhận chuyển nhượng từ người dân trong làng Beng đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sdụng đất nhưng ông Mah M kng cung cấp
4
giấy tliên quan nên không có sxác định. Hiện Ủy ban nhân n huyện
chưa tng tin về việc cấp giấy chứng nhận cho ông Mah M tại thửa đất
số 29 tbản đồ số 36. Đồng thời ông Ksor B trình bày vị tông Mah M sử
dụng làm n hiện nay do ông Ksor B cho con gái (vông Mah M) s
dụng. Theo nội dung, thông tin hồ sơ tranh chấp của y ban nhân dân xã C
lập, y ban nn n huyện c định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
được cấp cho hộ ông Ksor B đảm bảo quy định pháp luật tại thời điểm cấp
giấy chứng nhận. Việc các h chuyển quyền s dụng đất cho nhau thì phải
thực hiện thủ tục đăng ký biến động theo quy định pp luật.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Ksor B trình bày:
Năm 1997, vợ chồng ông cùng khai hoang thửa đất tại Làng Beng, xã C,
huyện I, tỉnh Gia Lai. Ông không nhớ rõ diện tích và tứ cận của thửa đất. Sau đó
ông cho ông Châm Ch khai hoang một phần thửa đất diện tích khoảng
15m ngang, chiều sâu giáp cao su ông Dung Bảy. Việc thỏa thuận phân chia
đất giữa ông và ông Rơ Châm Ch chỉ thỏa thuận bằng miệng. Ông Châm Ch
đã sử dụng đất ổn định phần thửa đất này từ năm 1997.
Năm 2001, chính quyền địa phương chủ trương cấp đất cho người dân
thì ông được Ủy ban nhân dân huyện I cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số U585620 ngày 15/10/2001 đối với các thửa số 28, thửa số 04, thửa số 01,
thửa số 29, tổng diện tích 24.764m
2
đất, vị trí tại Làng Beng, xã C, huyện I, tỉnh
Gia Lai. Khi chính quyền địa phương thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho các hộ dân thì không yêu cầu ông chỉ ranh giới đất nên ông
không biết được thửa đất ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cả phần diện tích đất của ông Rơ Châm Ch.
Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông không thực
hiện tách thửa hay chuyển nhượng đất cho người khác. Tuy nhiên ông chia
đất thành 02 phần, cho 02 con gái Puih J và Puih B. Sau đó, 02 con gái của
ông xây nhà trên phần đất đã được cho sống ổn định đến nay. Đối với phần
đất đã thỏa thuận giữa ông ông Châm Ch thì ông không cho các con.
Việc cho đất giữa ông và 02 con gái chỉ thỏa thuận bằng miệng. Việc con rể ông
Mah M cho rằng diện tích đất của ông Châm Ch do vợ chồng M
khai hoang là ông không đồng ý.
Nay, ông Rơ Châm Ch khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết hủy một phần
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn
liền với đất số U585620 do Ủy ban nhân dân huyện I cấp ngày 15/10/2001 cho
người sử dụng đất là hộ ông Ksor B đối với thửa đất số 29, tờ bản đồ số 36, diện
tích 1.808,6m
2
tại Làng Beng, xã C, huyện I, tỉnh Gia Lai, ông đồng ý. Nếu
Tòa án hủy toàn bộ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông thì ông không
đồng ý.
4. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Cao Duy H1
Thị H2 trình bày:
5
Năm 2008, ông bà nhận chuyển nhượng của ông Châm Ch diện tích
đất khoảng 1.575m
2
tại Làng Beng, C, huyện I, tỉnh Gia Lai. Đất chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hai bên viết giấy sang nhượng đất
xác nhận của y ban nhân dân xã. Lúc đó, ông Mah M (là con rể ông
B) cũng mặt, người làm chứng ký xác nhận vào giấy sang nhượng
đất ở giữa ông Rơ Châm Ch với vợ chồng ông bà.
Khi vợ chồng ông nhận chuyển nhượng đất từ ông Châm Ch thì
phần đất của ông Ksor B đã được rào sẵn. Đối với phần đất của vợ chồng ông bà
thì ông bà dựng cọc gỗ giăng hàng rào thép gai xung quanh phần đất của
mình. Một thời gian sau thì các cọc gỗ bị mục đổ. Vào ny 04/4/2024 ông
Mah M tự ý mang cọc dây thép gai rào luôn cả phần đất của vchồng
ông bà. Ông nhắc nhở nhưng ông Mah M không nghe cho rằng đất
đó của vợ chồng ông Mah M vợ chồng ông M đã được cấp giấy chng
nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên. Sau đó đến ngày 17/4/2025 ông
Mah M lại tiếp tục tự ý chặt phá 17 cây điều của ông đã trồng trên đất từ
năm 2008.
Sau khi nhận chuyển nhượng đất thì ông trồng điều, đến năm 2009 thì
đào giếng và làm nhà trên đất. Trước khi làm nhà, ông bà có gọi ông Rơ Mah M
ra xác định ranh giới đất, ông Mah M không ý kiến gì. Vợ chồng ông
đã sử dụng ổn định phần đất đó từ khi nhận chuyển nhượng cho đến m
2024 ôngMah M tự ý dựng rào xung quanh đất, không cho vợ chồng ông
vào sử dụng đất.
Nay, ông Rơ Châm Ch khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết hủy một phần
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn
liền với đất số U585620 do Ủy ban nhân dân huyện I cấp ngày 15/10/2001 cho
người sử dụng đất là hộ ông Ksor B đối với thửa đất số 29, tờ bản đồ số 36, diện
tích là 1.808,6m
2
tại Làng Beng, xã C, huyện I, tỉnh Gia Lai, ông bà đồng ý.
5. Người đại diện theo ủy quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan (ông Mah M, Puih J, Puih B, Puih S, Puih L, ông Puih
T) là ông Trần Mạnh Đ trình bày:
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U585620 do Ủy ban nhân dân
huyện I cấp ngày 15/10/2001 cho hộ ông Ksor B đối với thửa đất số 29, tờ bản
đồ số 36 tại Làng Beng, C, huyện I, tỉnh Gia Lai thuộc quyền sử dụng hợp
pháp của hộ ông Ksor B (trong đó các con của ông Ksor B). Đồng thời, hộ
ông Ksor B đã sử dụng liên tục, ngay tình từ khi khai hoang và được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho đến nay. Các con của ông Ksor B không thừa
nhận việc ông Ksor B ông Châm Ch cùng khai hoang thửa đất trên tại
thời điểm năm 1997, cả hai ông đều cán bộ làm việc tại nên không thời
gian khai hoang. Việc khai hoang đất chỉ có vợ và các con của ông Ksor B làm.
Nay, ông Rơ Châm Ch khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết hủy một phần
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn
liền với đất số U585620 do Ủy ban nhân dân huyện I cấp ngày 15/10/2001 cho
6
người sử dụng đất là hộ ông Ksor B đối với thửa đất số 29, tờ bản đồ số 36, diện
tích 1.808,6m
2
tại Làng Beng, C, huyện I, tỉnh Gia Lai, các ông bà con
ông Ksor B không đồng ý.
Tại phiên tòa:
- Người khởi kiện giữ nguyên yêu cầu khởi kiện vviệc “Hủy một phần
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn
liền với đất số U 585620 do Ủy ban nhân dân huyện I cấp ngày 15/01/2001 cho
người sử dụng đất là hộ ông Ksor B đối với thửa đất số 29, tờ bản đồ số 36, diện
tích là 1.808,6m
2
tại Làng Beng, xã C, huyện I, tỉnh Gia Lai.”
- Người đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã C không
đồng ý với yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Ksor B; ông Cao Duy H1
và bà Lê Thị H2 đồng ý với yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
- Người đại diện theo ủy quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Mah M, Puih J, bà Puih B, Puih S, Puih L, ông Puih T
không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
- Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193
của Luật tố tụng hành chính; chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người
khởi kiện về yêu cầu hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số U585620 do Ủy ban nhân dân
huyện I cấp ngày 15/10/2001 cho người sử dụng đất hộ ông Ksor B đối với
thửa đất số 29, tờ bản đồ số 36, diện tích 1.808,6m
2
tại Làng Beng, C,
huyện I, tỉnh Gia Lai. Người bị kiện phải chịu án phí hành chính thẩm theo
quy định của pháp luật. Chấp nhận sự tự nguyện của người khởi kiện tnguyện
chịu toàn bộ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về đối tượng khởi kiện:
- Người khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết: Hủy một phần Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hu nhà tài sản khác gắn liền với đất số
U585620 do Ủy ban nhân dân huyện I cấp ngày 15/10/2001 cho người sử dụng
đất là hộ ông Ksor B đối với thửa đất số 29, tờ bản đồ số 36, diện tích
1.808,6m
2
tại Làng Beng, xã C, huyện I, tỉnh Gia Lai.
- Hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền s dụng đất của hộ ông Ksor B
được thực hiện theo diện cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất đại tcho
nhân dân, được y ban nhân n huyện I, tỉnh Gia Lai cấp giấy chứng nhận
tại Quyết định s202/QĐ-UBND ngày 15 tháng 10 năm 2001 cấp cho 1.008
chsdụng đất đang sdụng đất trên địa bàn xã la Chia với tổng diện ch
cấp giấy chứng nhận 12.492.507 . Do vậy, Quyết định số 202/QĐ-UBND
7
ngày 15/10/2001 của y ban nn dân huyện I vviệc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất Quyết định nh chính có liên quan đến quyết định hành
chính bkiện n cần được xem xét giải quyết trong ván theo quy định tại
khoản 1 Điều 6 Luật tố tụng hành chính.
Các quyết định hành chính trên đối tượng khởi kiện của vụ án hành
chính theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành chính.
[1.2] Về thời hiệu khởi kiện:
Ông Châm Ch khai: Giữa ông Mah M (con rể ông Ksor B) với v
chồng ông Cao Duy H1, Thị H2 có tranh chấp diện tích đất ông Rơ Châm
Ch đã chuyển nhượng cho và ông H1, bà H2. Ngày 11/12/2024, Ủy ban nhân
dân C, huyện I, tỉnh Gia Lai (nay Ủy ban nhân dân C, tỉnh Gia Lai) lập
biên bản hòa giải giữa các bên đương sự. Khi đó ông Rơ Châm Ch mới biết diện
tích đất trên đã được Ủy ban nhân dân huyện I cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho hộ ông Ksor B. Do đó, ngày 02/4/2025 ông Châm Ch nộp đơn
khởi kiện tại Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai còn thời hiệu khởi kiện theo quy
định tại điểm a khoản 2 Điều 116 của Luật Tố tụng hành chính.
[1.3] Về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện:
Người khởi kiện khiếu kiện quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân
huyện I, tỉnh Gia Lai (nay người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của Ủy ban
nhân dân huyện I, tỉnh Gia Lai Chủ tịch Ủy ban nhân dân C, tỉnh Gia Lai)
nên theo quy định tại khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính, vụ án thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.
[1.4] Tại phiên tòa, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Puih Y
vắng mặt và văn bản đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại khoản 1
Điều 168 của Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt đối với
bà Puih Y.
[2] Về nội dung:
[2.1] Tại phiên tòa, ông Ksor B ông Châm Ch khẳng định thửa đất
số 29, tờ bản đồ số 36, vị trí tại Làng Beng, xã C, huyện I, tỉnh Gia Lai (nay
Làng Beng, C, tỉnh Gia Lai) do ông Ksor B cho ông Châm Ch cùng khai
hoang năm 1997. Diện tích ông Ch khai hoang ít hơn ông B, cả hai ông không
nhớ diện tích, chỉ biết diện tích đất ông Ch khai hoang khoảng 15m ngang
mặt đường, chiều dài sâu giáp đất cao su của hộ gia đình người dân, diện tích đất
một cạnh giáp đường đất nhỏ, một cạnh giáp đất ông B khai hoang (sau này
ông B cho vợ chồng con gái bà Puih J và con rể là ông Rơ Mah M).
Sau khi khai hoang thì cả hai ông Ksor B ông Châm Ch đều trồng
cây trên đất. Sau đó, ông Ksor B cho vợ chồng 02 con gái bà Puih J (chồng
Rơ Mah M) và bà Puih B. Năm 2008, ông Rơ Châm Ch cũng đã chuyển nhượng
phần diện tích đất khai hoang cho vợ chồng ông Cao Duy H1, bà Lê Thị H2.
Theo ông B khai: Việc tặng cho đất giữa ông Ksor B 02 con gái
Puih J (chồng Mah M) Puih B chỉ nói bằng miệng, hiện nay cả hai gia
8
đình đều xây dựng nhà trên đất. Diện tích đất ông B cho vchồng con gái
Puih J (chồng Mah M) giáp với đất của ông Ch nên khi xây dựng nhà vợ
chồng Puih J, ông Mah M đã làm hàng rào ngăn phần đất giữa n
Puih J, ông Rơ Mah M với đất ông Rơ Châm Ch.
Theo ông Rơ Châm Ch và vợ chồng ông Cao Duy H1, Lê Thị H2 khai:
Năm 2008, ông Châm Ch chuyển nhượng đất cho vchồng ông Cao Duy
H1, bàThị H2 có làm Giấy sang nhượng đất và có xác nhận của chính quyền
địa phương, sau khi nhận chuyển nhượng đất thì vợ chồng ông H1, H2 trồng
cây điều xây dựng nhà cấp 4 năm 2009. Đến năm 2024, ông Mah M
con rể ông Ksor B tự ý chặt phá cây điều m hàng rào xung quanh đất ông
H1, H2 không cho ông H1, H2 sử dụng đất ông M cho rằng diện tích
đất này là của ông đã được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tại Biên bản xem xét thẩm định ngày 11/6/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh
Gia Lai (Bút lục từ số 87-90) thể hiện, phần diện tích đất ông Châm Ch
chuyển nhượng cho vợ chồng ông Cao Duy H1, bà Lê Thị H2 có tứ cận:
- Phía Đông giáp đường hiện trạng dài 96,46m + 8,65m
- Phía Tây giáp đất ông Mah M, Puih J đang sử dụng dài 98,16m +
8,13m
- Phía Nam giáp đường liên xã dài 17,3m
- Phía Bắc giáp hào cao su dài 17m
Tổng diện tích: 1.808,6m
2
. Trên đất 01 nhà riêng lẻ được xây bằng
gạch, nhà được xây năm 2009 có diện tích 65m
2
.
Qua lồng ghép với tờ bản đồ địa chính thì diện tích đất ông Châm Ch
chuyển nhượng cho vợ chồng ông Cao Duy H1, Thị H2 thuộc một phần
thửa đất số 29, tờ bản đồ số 36 tại Làng Beng, C, huyện I, tỉnh Gia Lai (nay
Làng Beng, C, tỉnh Gia Lai) đã được Ủy ban nhân dân huyện I, tỉnh Gia
Lai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U585620, ngày 15/10/2001 cho
người sử dụng đất là hộ ông Ksor B.
Như vậy, thực tế diện tích đất vợ chồng ông Cao Duy H1, Thị H2
đang sử dụng do nhận chuyển nhượng của ông Rơ Châm Ch là phù hợp với diện
tích, vtrí đất do ông Ksor B ông Châm Ch khai hoang theo lời khai của
hai ông cũng phù hợp với Giấy sang nhượng đất đngày 06/9/2008 giữa
ông Rơ Châm Ch với vợ chồng ông Cao Duy H1, bà Lê Thị H2 có xác nhận của
Ủy ban nhân dân xã C (Bút lục số 08-09).
[2.2] Quá trình giải quyết vụ án, ông Rơ Mah M (con rể ông Ksor B) vắng
mặt nhưng tại phiên a ông M mặt cho rằng phần diện tích đất vợ
chồng ông Cao Duy H1, Thị H2 đang sử dụng đất của vợ chồng ông t
khai hoang và đã được Ủy ban nhân dân huyện I cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, sau đó ông cho một người tên Hùng thuê trồng điều xây nhà trên
đất. Sau này, ông Hùng không mà thấy vợ chồng ông H1, H2 sử dụng, ông
9
không biết ông H1, bà H2 là ai nên vợ chồng ông đã ngăn cản, rào lại đất không
cho ông H1, bà H2 sử dụng đất nữa.
Theo ông Cao Duy H1, Thị H2 trình bày: Ông Hùng ông M
nhắc đến cháu của ông bà, sau khi nhận chuyển nhượng đất thì ông trồng
điều và xây nhà nhưng không ở mà giao cho ông Hùng ở để chăm sóc cây điều.
Tại phiên tòa ông Mah M được xem Giấy sang nhượng đất đề ngày
06/9/2008 giữa ông Châm Ch với vợ chồng ông Cao Duy H1, Thị H2
(Bút lục số 08-09) thể hiện diện tích đất ông Ch chuyển nhượng cho ông H1,
H2 có một cạnh giáp nhà Rơ Mah M và có chữ ký người làm chứng là ông M ký
ghi họ tên. Tuy nhiên, ông M cho rằng ông bị lừa dối nên M vào giấy sang
nhượng đất chỗ người làm chứng, ông không được đọc không biết nội dung
giấy viết gì. Do ông H1 nói nhờ ông ký thì ông ký.
Như vậy, việc ông M khai nhận không biết vợ chồng ông Cao Duy H1, bà
Thị H2 không phù hợp thực tế. Ngoài ra, ông M còn khai nhận không biết
rõ họ tên đầy đủ và địa chỉ của ông Hùng là người ông M khai cho thuê đất, việc
thuê đất giữa ông M với ông Hùng cũng không có giấy tờ gì. Ông M cũng không
chứng cứ chứng minh mình bị lừa dối ký vào phần người làm chứng trong
giấy sang nhượng đất. Tại Biên bản xem xét thẩm định ngày 11/6/2025 của Tòa
án nhân dân tỉnh Gia Lai, thể hiện diện tích đất ông Cao Duy H1, bà Thị H2
nhận chuyển nhượng của ông Châm Ch đã được Ủy ban nhân dân huyện I
cấp cho hộ ông Ksor B, còn diện tích đất vợ chồng ông Rơ Mah M được Ủy ban
nhân dân huyện I cấp đất vtrí khác (Bút lục từ số 87-90). Do đó, sở
xác định diện tích đất ông Cao Duy H1, Thị H2 nhận chuyển nhượng của
ông Rơ Châm Ch không phải là diện tích đất của vợ chồng ông Rơ Mah M và bà
Puih J.
[2.3] Theo nội dung, thông tin hsơ tranh chấp của Ủy ban nhân n xã
C lập, Ủy ban nhân n huyện I xác định giấy chứng nhận quyền sdụng đất
được cấp cho hông Ksor B được Ủy ban nhân dân C niêm yết công khai,
hồ sơ đnghị cấp giấy chứng nhận đảm bảo theo quy trình, quy định của Luật
đất đai m 1993 và c văn bản hướng dẫn thi hành tại thời điểm cấp giấy
chứng nhận. Việc c hộ chuyển quyền sử dụng đất cho nhau thì phải thực
hiện thủ tục đăng biến động theo quy định pháp luật.
Như vậy, y ban nhân dân huyện I cấp giấy chứng nhận quyền sdụng
đất được cho hộ ông Ksor B năm 2001 theo quy định của Luật đất đai năm
1993. Tại Thông số 346/1998/TT-TCĐC ngày 16/3/1998 của Tổng cục Địa
chính hướng dẫn thủ tục đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 1993 quy định:
- Tại mục 1.2.3 phần II “Chủ sử dụng đất kê khai và nộp hồ sơ kê khai tại
Ủy ban nhân dân (phường, thị trấn), hồ sơ bao gồm: Đơn xin đăng quyền
sử dụng đất; Các giấy tờ pháp kèm theo về nguồn gốc của đất đang sử
dụng;…”
10
- Tại mục I.2.4 phần II “Uỷ ban nhân dân xã (phường, thị trấn) chịu trách
nhiệm xét để xác nhận vào đơn đăng của từng chủ sử dụng đất trên sở
nghiên cứu kết luận của Hội đồng đăng đất các quy định của pháp luật.
Trình tự thực hiện như sau: Trên cơ sở khai của chủ sử dụng đất, Tổ đăng
đất đai tiến hành thẩm tra, xác minh lập hồ sơ đầy đủ cho từng chủ sử dụng
đất; bộ phân loại hồ theo mức độ hoàn thiện: đầy đủ hoặc chưa đầy đủ,
hợp lệ hoặc chưa hợp lệ, về nguồn gốc đất đai hoặc chưa rõ, v.v... để trình
Hội đồng đăng ký đất đai...”
Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, ông Ksor B và ông Rơ
Châm Ch đều khẳng định thửa đất hộ ông Ksor B được cấp giấy chứng nhận
quyền sdụng đất phần diện ch đất ông Ksor B cho ông Rơ Cm Ch
khai hoang và sdụng từ năm 1997. Ngi ra, ông Ksor B còn khai nhận khi
chính quyền địa phương thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho các hộ dân thì không yêu cầu ông chỉ ranh giới đất nên ông không biết
được thửa đất ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có cả phần diện
tích đất của ông Rơ Châm Ch. Tại phiên tòa, ông Ksor B được xem đơn đăng
quyền sử dụng đất (Bút lục số 81-82), ông khẳng định chữ viết chữ trong
đơn không phải của ông. Do đó, n cứ quy định tại Thông số 346/1998/TT-
TCĐC ngày 16/3/1998 của Tổng cục Địa chính thì việc Ủy ban nhân dân huyện
I chưa tiến hành thẩm tra, xác minh làm về nguồn gốc đất thực hiện cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Ksor B là không đúng quy định.
[2.4] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của người khởi kiện ông Rơ Châm Ch về việc hủy một phần Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hu nhà tài sản khác gắn liền với đất số
U585620 do Ủy ban nhân dân huyện I cấp ngày 15/10/2001 cho người sử dụng
đất là hộ ông Ksor B.
Mặc dù, quá trình tham gia tố tụng trong vụ án, ông Châm Ch chỉ yêu
cầu hủy một phần đất bị cấp sai diện tích 1.808,6m
2
thuộc thửa đất số 29, tờ
bản đồ số 36 tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên. Tuy nhiên, theo
hướng dẫn tại điểm 1 mục IV Công văn 196/TANDTC-PC ngày 03/10/2023 của
Tòa án nhân dân tối cao v/v thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số
vướng mắc trong công tác xét xử” thì:
“Trường hợp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp chung cho nhiều
thửa đất riêng biệt; trình tự, thủ tục, thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đúng quy định của pháp luật, nhưng có sai sót đối với một hoặc một
số thửa đất về diện tích, tứ cận hay loại đất phần này độc lập, không ảnh
hưởng đến phần còn lại thì Tòa án chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện, tuyên
hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (đối với thửa đất hoặc những
thửa đất có sai sót).
Do đó, không thể hủy một phần diện tích 1.808,6m
2
đất bị cấp sai như yêu
cầu của ông Châm Ch cần thiết phải hủy toàn bộ thửa đất số 29, tờ bản
đồ số 36 tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản
11
khác gắn liền với đất số U585620 do Ủy ban nhân dân huyện I cấp ngày
15/10/2001 cho người sử dụng đất hộ ông Ksor B. Đồng thời, buộc Chủ tịch
Ủy ban nhân dân xã C, tỉnh Gia Lai thực hiện nhiệm vụ công vụ xem xét cấp lại
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các đương sự theo đúng nguồn gốc,
thực tế các bên đang sử dụng.
[2.5] Do Hội đồng xét x chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi
kiện là ông Rơ Châm Ch yêu cầu hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất liên quan đến Quyết định s202/QĐ-UBND ngày 15/10/2001 của y
ban nhân dân huyện I vcấp Giấy chứng nhận cho 1.008 chủ sử dụng đất đang
sử dụng đất trên địa bàn xã la Chia với tổng diện ch cấp giấy chứng nhận
12.492.507 m², trong đó có thửa đất số 29, tờ bản đồ số 36 tại Làng Beng, xã C,
huyện I, tỉnh Gia Lai cấp cho hộ ông Ksor B. Nên cần hủy một phần Quyết định
số 202/QĐ-UBND ny 15/10/2001 của Ủy ban nn dân huyện I về việc cấp
giấy chứng nhận quyền sdụng đất đối với thửa đất số 29, tờ bản đồ số 36 tại
Làng Beng, xã C, huyện I, tỉnh Gia Lai cho hộ ông Ksor B.
[3] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện được chấp nhận
nên người bị kiện phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.
[4] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Chi phí xem xét, thẩm định
tại chỗ 11.000.000 đồng (Mười một triệu đồng). Người khởi kiện ông
Châm Ch tự nguyện chịu toàn bộ nên HĐXX chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3, 4 Điều 3, Điều 30, khoản 4 Điều 32, Điều 116, điểm c
khoản 1 Điều 143, khoản 2 Điều 165, Điều 191, điểm b khoản 2 Điều 193, Điều
194, Điều 206 của Luật tố tụng hành chính; Điều 32 của Nghị quyết số 326/NQ-
UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Căn cứ Luật Đất đai năm 1993; Thông số 346/1998/TT-TCĐC ngày
16/3/1998 của Tổng cục Địa chính hướng dẫn thủ tục đăng đất đai, lập hồ
địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
Căn cứ điểm h, điểm i khoản 1 Điều 5 Nghị định số 151/2025/NĐ-CP
ngày 12/6/2025 của Chính phủ “Quy định về phân định thẩm quyền của chính
quyền địa phương 02 cấp, phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực đất đai”.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện về việc:
- Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
tài sản khác gắn liền với đất số U585620 do Ủy ban nhân dân huyện I cấp
ngày 15/10/2001 cho người sử dụng đất là hộ ông Ksor B đối với thửa đất số 29,
tờ bản đồ số 36 tại Làng Beng, xã C, huyện I, tỉnh Gia Lai.
12
- Hủy một phần Quyết định số 202/QĐ-UBND ngày 15/10/2001 của y
ban nhân n huyện I vviệc cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất đối với
thửa đất số 29, tờ bản đồ số 36 tại Làng Beng, xã C, huyện I, tỉnh Gia Lai cho hộ
ông Ksor B.
Buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân C, tỉnh Gia Lai thực hiện nhiệm vụ
công vụ xem xét cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các đương sự
theo đúng nguồn gốc, thực tế các bên đang sử dụng.
2. Về án phí:
Buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân C, tỉnh Gia Lai phải chịu 300.000
đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hành chính sơ thẩm.
Ông Châm Ch không phải chịu án phí hành chính thẩm. Hoàn lại
cho ông Châm Ch số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm
nghìn đồng) theo Biên lai số 0000234 ngày 21 tháng 4 năm 2025 của Cục thi
hành án dân sự tỉnh Gia Lai.
3. Về chi phí tố tụng:
Người khởi kiện ông Châm Ch tự nguyện chịu số tiền chi phí xem
xét, thẩm định tại chỗ 11.000.000 (Mười một triệu đồng). Ông Châm Ch
đã nộp đủ số tiền trên.
4. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự mặt tại
phiên tòa quyền kháng cáo yêu cầu Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao
tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm. Riêng đương sự không mặt tại phiên tòa thì
thời hạn kháng cáo được tính ktừ ngày bản án được giao hoặc bản án được
niêm yết.
Nơi nhận:
- Tòa Phúc thẩm TANDTC tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Gia Lai;
- Cục THA Dân sự tỉnh Gia Lai;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, Toà HC, VT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đinh Thị Như Phượng
Tải về
Bản án số 10/2025/HC-ST Bản án số 10/2025/HC-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 10/2025/HC-ST Bản án số 10/2025/HC-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án mới nhất