Bản án số 10/2025/DS-PT ngày 19/03/2025 của TAND tỉnh Ninh Thuận về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 10/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 10/2025/DS-PT ngày 19/03/2025 của TAND tỉnh Ninh Thuận về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Ninh Thuận
Số hiệu: 10/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chia di sản thừa kế theo pháp luật; hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giữa ông Lý Văn M và ông Lý Văn K
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH NINH THUẬN
Bản án số: 10/2025/DS-PT
Ngày: 19 - 3 - 2025
V/v: Chia di sản thừa kế theo
pháp luật; hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH THUẬN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hàng Lâm Viên
Các Thẩm phán:Bà Ngô Thị Trang
Phạm Thị Anh Trang
- Thư phiên a: Đàm Vân Nha Thư Tòa án nhân dân tỉnh Ninh
Thuận.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Thuận:
Ông Nguyễn Văn Thắng - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 3 năm 2025, tại Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận xét xử phúc
thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 70/2024/TLPT-DS ngày 17 tháng 10 năm 2024
về việc “Chia di sản thừa kế theo pháp luật; hủy Giấy chứng nhận quyền sdụng
đất”. Do bản án dân sự thẩm số 13/2024/DS-ST ngày 11 tháng 7 năm 2024 của
Toà án nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 05/2025/QĐ-PT ngày 21
tháng 02 năm 2025, Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2025/QĐ-PT ngày 05 tháng 3
năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lý Văn M, sinh năm 1964 (có mặt);
Địa chỉ: Thôn S, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận.
Người đại diện theo y quyền của ông M: Ông Văn H, sinh năm 1960 (có
mặt);
Địa chỉ: Số nhà A đường T, khu phố B, phường Đ, thành phố P - T, tỉnh Ninh
Thuận.
- Bị đơn: Ông Lý Văn K, sinh năm 1968 (có mặt);
Địa chỉ: Thôn S, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận.
Người đại diện theo ủy quyền của ông K: Ông Bá Trung Á, sinh năm 1986 (có
mặt);
Địa chỉ: Thôn V, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận.
- Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân huyện T;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trương Xuân V - Chủ tịch UBND.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Xuân T Phó Trưởng phòng phòng Tài
nguyên và Môi trường huyện T (vắng mặt).
2. Bà Lý Thị Hồng M1, sinh năm 1959 (có mặt);
3. Ông Lý Văn L, sinh năm 1971 (có mặt);
4. Ông Lý Văn S, sinh năm 1973 (vắng mặt);
5. Ông Lý Văn H1, sinh năm 1975 (có mặt);
6. Ông Lý Thái B, sinh năm 1980 (có mặt);
Cùng địa chỉ: Thôn S, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận.
7. Bà Lý Thị Hồng T1, sinh năm 1976 (có mặt);
Địa chỉ: Khu phố B, phường V, thành phố P - T, tỉnh Ninh Thuận;
8. Bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1973 (vắng mặt);
Địa chỉ: Thôn S, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Lý Văn M.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện trong quá trình tham gia tố tụng, tại phiên tòa ông Văn
M trình bày:
Cha mẹ ông cụ Văn Đ (Diếm), chết năm 1993 cụ Thị D chết năm
2016, sinh được 08 người con chung: Thị Hồng M1, Văn M, Văn K,
Văn L, Văn S, Văn H1, Thị Hồng T1, Thái B. Cha mông không
con riêng, con nuôi, chết không để lại di chúc.
Năm 1976 - 1977, cha mẹ ông có khai hoang, phục hóa thửa đất không rõ diện
tích thuộc P, T, G. Thửa đất vị trí tứ cận: Phía Bắc giáp đất ông Thái H2,
phía Tây giáp đất ông Ngô D1, phía Nam giáp đất ông Nguyễn Văn S1, phía Bắc
giáp đường đi liên B, P. Khi xảy ra tranh chấp ông mới biết chính xác diện tích
15.802m
2
thuộc thửa 135. Từ khi khai hoang, thì các anh chị em ông Văn M,
Thị Hồng M1 Văn L cùng cha mcanh tác trồng đậu, khoai ổn định đến
năm 1993 cha ông chết nên để lại đất trống. m 1997, ông Lý Văn L đăng ký trồng
keo tràm cho nhà nước trên toàn bộ đất của cha mẹ đlấy tiền đất chăm sóc cây.
Quá trình sử dụng đất thì ông K đã lén nhờ anh rể ông Trần Văn S2 (chồng M1)
đo đất và đăng ký quyền sử đất riêng cho ông K. Khi xảy ra tranh chấp, ông Nguyễn
Thái T2 là trưởng thôn S đã xác nhận tại buổi hòa giải của xã về việc làm sổ đỏ cho
ông K sai, thửa đất 135 có nguồn gốc của cha mẹ chkhông phải của ông K. Vì
vậy, y ban nhân dân xã PỦy ban nhân dân huyện T xét và cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng cho ông K, không các đồng thừa kế xác nhận là không đúng
quy trình, thủ tục của Luật đất đai 2013.
Nay ông yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 313351 đã cấp
cho ông Văn K; Buộc ông Văn K chia thừa kế thửa đất trên bằng hiện vật cho
08 người được nhận 8 phần bằng nhau.
Về chứng cứ: Ông xác định đất nguồn gốc của cha mẹ khai hoang chưa đăng
khai nên chưa được cấp giấy tờ; Tuy nhiên, một số người sống gần đất
người làm công tác địa chính tại xã biết rõ, gồm: ông Nguyễn Văn S1, ông Nguyễn
Chí D2, ông Nguyễn Thái T3, ông Ngô Xuân T4, Nguyễn Văn Đ1, ông Trần Ngọc
T5, bà Phùng Thị N, ông Phạm Hữu N1 nên đề nghị Tòa chấp nhận.
Về diện tích, thực tế thửa đất 135 diện tích 15.802m² nhưng khi chỉ đo tại trích
lục số 366/2023 ngày 23/7/2023 thể hiện diện tích 16.868m² trong đó lấn đường
1.066m² thì ông thống nhất không yêu cầu giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 08/02/2023, các lời khai trong hồ tại phiên tòa, bị
đơn ông Văn K trình bày: Ông thống nhất lời khai của ông M về quan hệ huyết
thống nhưng không chấp nhận lời khai của ông M về nguồn gốc đấtkhông chấp
nhận yêu cầu hủy giấy chứng nhận cũng như chia thừa kế của ông M.
Về nguồn gốc đất, ông khẳng định do vợ chồng ông (Văn K, Nguyễn Thị G)
tự khai hoang tnăm 1990. Sau khi khai hoang, vợ chồng ông canh tác trồng dưa lấy
hạt liên tục đến năm 1997 đăng ký kê khai tại xã P, được quy chủ đứng tên trong Sổ
mục của xã. Ông sử dụng đất ổn định và hợp đồng với Ban Q trồng cây keo
Tràm đều không ai tranh chấp hay ý kiến gì. Năm 2015, ông đăng ký quyền sử
dụng và được UBND huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 313357
ngày 23/6/2015. Năm 2021, khi dự án đường V đi qua, UBND huyện T ban hành
quyết định số: 4424/QĐ-UBND ngày 31/12/2021 quyết định số 147/QĐ-UBND
ngày 20/01/2022 thu hồi, bồi thường cho ông số tiền 18.976.500đ cũng không ai có
ý kiến. Sau đó, ông M cho rằng đất của cha mẹ và tranh chấp đến nay. Ông M và các
anh chị em yêu cầu chia thừa kế thửa đất trên là không có căn cứ.
Tại phiên tòa, ông K người đại diện theo ủy quyền vẫn giữ nguyên ý kiến
phản bác trên. Tại bản trình bày ý kiến ngày 16/01/2023, lời khai trong hồ sơ và tại
phiên toà, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Thị Hồng M1, ông Văn
L, ông Lý Văn H1, Lý Thị Hồng T1, ông Lý Thái B cùng trình bày:
Các ông bà thống nhất lời khai và yêu cầu của nguyên đơn về hàng thừa kế, về
nguồn gốc đất và chứng cứ chứng minh. Các ông bà vẫn khẳng định thửa đất trên là
di sản của cha mẹ đlại; Các ông đã từng canh tác cùng cha mẹ, cụ thể: M1
canh tác từ năm 1980 đến khi lấy chồng, bà T1 canh tác được 2 năm không nhớ thời
điểm canh tác, ông M canh tác từ năm đến năm 1984 - 1985 thì giao ông L canh tác
đến năm 1996 thì đại diện cho cha mẹ đăng trồng rừng, đến khi thu hoạch các anh
chị em đều trực tiếp khai thác, hưởng lợi; Còn việc ông K đứng tên hồ trồng rừng
là đứng tên giùm cho ông L. Nay ông K tự ý làm Sổ đỏ mà không có ý kiến của các
ông không đúng quy định. Tại xã ông Văn K khai ông K nhờ ông Trần
Văn S2 (chồng M1) khai, đăng ký để cấp quyền sử dụng cho ông K để làm
nghĩa trang gia đình nên ông S2 và các ông không ý kiến. vậy, các ông bà
vẫn khẳng định thửa đất trên di sản của cha mẹ nên thống nhất yêu cầu hủy giấy
chứng nhận quyền sdụng đất cấp cho ông K; Buộc ông Văn K phải chia thửa
đất trên cho 08 anh chị em các đồng thừa kế, chia phần mỗi người bằng nhau để
các ông bà sử dụng.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 31/5/2024, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Văn S trình bày: Ông xác nhận, cha mẹ ông cụ Văn Đ (Diếm), cụ
Thị D sinh được 08 người con, gồm: Thị Hồng M1, Văn M, Văn K,
Văn L, Văn S, Lý Văn H1, Thị Hồng T1, Lý Thái B hiện đều còn sống. Cha
mẹ không có con riêng, con nuôi. Cha chết năm 1993, mẹ chết năm 2016 đều không
để lại di chúc. Khi còn sống, cha mẹ ông có rất nhiều đất nhưng đã chia hết cho các
con làm ăn. Đối với thửa đất hiện các anh chị em tranh chấp đòi chia thừa kế
nguồn gốc do vợ chồng ông Kim T6 khai hoang, sử dụng từ năm 1990. m 1997,
vợ chồng ông K thuê ông đến trồng cây trả công cho ông; Thời điểm này vợ chồng
ông sống cùng mẹ nên mẹ ông biết rõ. Khi các anh chị ông tranh chấp báo với ông
thì ông nói “đất của ông K tranh chấp gì” nên từ đó không ai liên lạc với ông
nữa. Nay các anh chị em tranh chấp đòi chia thừa kế thửa đất của vợ chồng ông K là
không đúng; Ông không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nên không yêu cầu gì. Ông
yêu cầu giải quyết vắng mặt.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 27/4/2023, bản trình bày ý kiến ngày 27/6/2024,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị G trình bày: Nguồn gốc thửa
đất ông Lý Văn M tranh chấp với vợ chồng bà do vợ chồng bà khai hoang, có trồng
cây keo lá Tràm. Bà đồng ý với ý kiến của ông Lý Văn K và yêu cầu giải quyết, xét
xử vắng mặt.
Tại văn bản số 813/UBND-TCD ngày 07/3/2024 của Ủy ban nhân dân huyện T
(CV 813) tại phiên tòa, ông Xuân T người đại diện theo ủy quyền của UBND
huyện T xác định: Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử đất cho ông Lý Văn K căn cứ
nguồn gốc đất, qtrình sử dụng đất đã được Hội đồng tư vấn đất đai của xã xem xét
đề nghị, đã tiến hành kiểm tra hiện trạng, thẩm định niêm yết công khai danh sách
hộ gia đình, nhân đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận hộ ông K nhưng bên nguyên
đơn không ý kiến. Năm 2022, thực hiện dán đường V UBND huyện T có ra các
quyết định thu hồi, bồi thường cho ông K cũng không ai có ý kiến; Đến nay nguyên
đơn cũng không giấy tờ gì chứng minh đất của cha mẹ. Qua xem xét, soát hồ
sơ cấp giấy chứng nhận cho ông K đều đúng quy trình, thủ tục nên không chấp nhận
yêu cầu hủy giấy chứng nhận của nguyên đơn.
Tại các văn bản trình bày ý kiến, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa,
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 13/2024/DS-ST ngày 11 tháng 7 năm 2024 của
Toà án nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận đã quyết định:
Căn cứ: Khoản 5 Điều 26, Điều 34, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39,
khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 165, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 203 Luật đất đai năm 2013; Khoản 1 Điều 26 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của các ông/bà: Lý Văn M, Thị
Hồng M1, Văn L, Văn H1, Thị Hồng T1, Thái B vviệc hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số BX 313351 và yêu cầu ông Văn K chia thừa kế thửa
đất số 135, tờ bản đồ số 16 xã P.
Ngoài ra bản án thẩm còn tuyên chi phí định giá, án phí, nghĩa vụ thi hành
án, quyền kháng cáo của đương sự.
Ngày 23/7/20224 của nguyên đơn ông Văn M kháng cáo bản án dân sự
thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết bao gồm: Sửa bản án dân ssơ thẩm
số 13/2024/DS-ST ngày 11 tháng 7 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện T, theo
hướng Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 313357 cấp ngày 23/6/2015
cho ông Văn K; Buộc ông Văn K phải trả lại số tiền bồi thường, hỗ trợ theo
hỗ trợ theo quyết định số 147/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân huyện T. Tại phiên
tòa, người kháng cáo xác định yêu cầu sửa bản án thẩm chia thừa kế theo pháp
luật diện tích đất hiện còn lại sau khi bị thu hồi và đưa số tiền bồi thường vào giá tr
di sản.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Thuận phát biểu ý kiến về
việc giải quyết vụ án:
- Hội đồng xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thực hiện đúng thủ tục tố tụng
từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa. Đơn kháng cáo của ông Lý Văn M hợp lệ.
- Vợ chồng cụ Đ, D không có bất cứ giấy tờ nào về quyền sử dụng đất qua các
thời kỳ. Vợ chồng cụ Đ, cụ D cũng không đăng ký, kê khai quyền sử dụng đất. Ông
Văn K quá trình sử dụng đất liên tục, ổn định từ năm 1993 đến năm 1997 được
quy chủ trong sổ Mục kê, đăng trồng rừng được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất hợp pháp. Ông Văn K sdụng đất, đăng quyền sử dụng đất các
đồng thừa kế biết nhưng không phản đối nên Tòa án cấp thẩm bác toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của ông Văn M là căn cứ. Ông Văn M kháng cáo không
căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Thủ tục tố tụng
[1.1] Đơn kháng cáo của ông Lý Văn M hợp lệ nên được Tòa án cấp phúc thẩm
thụ lý, giải quyết.
[1.2] Ông Lý Văn M giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện. Bị đơn ông Lý Văn K không thương lượng, hòa giải.
[2] Các đương sự tranh luận
[2.1] Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn đồng thời là người kháng cáo
cho rằng ông Văn K không khai hoang đất; nguồn gốc đất tranh chấp do vợ
chồng cụ Đ, cụ D khai hoang trước năm 1975, sử dụng đến năm 1990 thì cụ D chết
nên các con tiếp tục canh tác; các đồng thừa kế thỏa thuận bằng lời nói cho ông
Văn K đại diện đăng quyền sử dụng đối với thửa đất số: 135 tờ bản đồ số 16
P. Ông Văn K đăng ký và được quy chủ trong sổ Mục kê trái pháp luật; ông Trần
Văn S2 đăng ký kê khai giúp ông K nên hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho ông K xác định sai nguồn gốc.
[2.2] Người dại diện hợp pháp của bị đơn cho rằng nguyên đơn không xuất trình
được bất cứ chứng cứ nào chứng minh quyền sử dụng đất. quan quản đất đai
khẳng định sau năm 1986, không thông tin gì về việc sử dụng đất của vchồng
cụ Văn Đ đối với thửa đất đang tranh chấp. Vợ chồng cụ Đ từ khi còn sống không
đăng kê khai quyền sử dụng đất cũng như không ý kiến về quyền sdụng
đối với thửa đất bị đơn đang sdụng và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng.
Ông Văn L trồng rừng trên thửa đất khác thửa đất ông K được cấp giấy chứng
nhận. Ông K sử dụng đất liên tục, công khai, đăng quyền sử dụng đất trong khi
các đồng thừa kế khác biết nhưng không phản đối nên Ủy ban nhân dân huyện T cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lý Văn K là đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo
[3.1] Nguồn gốc đất: Nguyên đơn cho rằng đất do vợ chồng cụ Đ, cụ D (cha,
mẹ của nguyên đơn, bị đơn) khai hoang trước năm 1975 canh tác chyếu nhnguồn
nước mưa đến năm 1986 do thời tiết nắng hạn nên để cho các con canh tác; nguyên
đơn không xuất trình được chứng cứ, tài liệu đchứng minh. Bị đơn cho rằng vợ
chồng bị đơn khai hoang đất nhưng cũng không có chứng cứ chứng minh việc khai
hoang. Những người làm chứng cũng như chính quyền địa phương xác định trước
năm 1986 thấy gia đình cụ D canh tác trên đất, sau năm 1986 thì không biết việc s
dụng đất như thế nào. Ủy ban nhân dân xã P cung cấp thông tin: Thời điểm từ ngày
05/01/1981 đến trước ngày 15/10/1993 01/7/2004, tại vị trí thửa đất số 135, tờ bản
đồ số 16, Ủy ban nhân dân P không thành lập sổ Mục kê. Từ ngày 15/10/1993 đến
trước ngày 01/7/2004, thì vị trí thửa đất số 135, tờ bản đồ số 16, theo sổ Mục kê do
Ủy ban nhân dân xã P thành lập ngày 29/11/1997 được quy chủ cho ông Lý Văn K.
Tòa án cấp phúc thẩm xét thấy việc quy chủ sử dụng đất cho ông Lý Văn K phù hợp
với các tình tiết khách quan của vụ án như:
- Công văn số: 813/UBND-TCD ngày 07/3/2024 của Ủy ban nhân dân huyện T
trả lời cho Tòa án nhân dân huyện T thì các hộ dân xung quanh cho biết khoảng sau
năm 1975 thấy vợ chồng cụ Đ, cụ D khai hoang đất sử dụng đến năm 1986, các h
dân di chuyển đi nơi khác nên không có thông tin;
- Biên bản phiên tòa sơ thẩm (bút lục số: 135), ông Lý Văn M, ông Văn L,
Thị Hồng M1 thừa nhận cùng canh tác đất với vợ chồng cụ Đ đến năm 1990
cụ Đ chết, năm 1993 các ông, bà không còn canh tác trên đất;
- Vợ chồng ông Văn K phục hóa đất, kết Hợp đồng trồng rừng năm
1997, sdụng đất liên tục, công khai ngay tình, được các đồng thừa kế biết nhưng
không phản đối, không tranh chấp, được chứng minh: Thị Hồng M1 được
chồng ông Trần Văn S2 thông tin ông Văn K đã đăng quyền sử dụng đất
nhưng bà M1 không phản đối; cụ D còn sống nhưng cũng không đăng khai
quyền sử dụng đt; ông Văn M thừa nhận đăng ký thửa đất số: 135 cho ông
Văn K (bút lục số: 134). Ông Văn M trồng rừng trên thửa đất khác, không phải
cùng thửa đất mà ông Lý Văn K được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng;
- Các Quyết định thu hồi, bồi thường, hỗ trợ của Nhà nước khi thu hồi đất làm
đường V, Sơn H3 quy chủ cho ông Lý Văn K thì các đồng thừa kế không phản đối.
[3.2] Vợ chồng cụ Đ, cụ D không canh tác đất liên tục, chấm dứt sử dụng trước
năm 1993, không đăng kê khai cũng như không bất cứ giấy tờ chứng minh
quyền sdụng đất. Thời điểm cụ Đ còn sống cũng nsau khi cụ Đ chết thì cụ D
các đồng thừa kế khác không đăng ký kê khai quyền sử dụng đất; không tranh chấp
về quyền sdụng đất. Thửa đất số: 135, tbản đồ số: 16 xã P được vợ chng ông
Văn K canh tác, đăng trồng rừng năm 1997 là thật (bút lục số: 36-39), được
quy chủ Sổ Mục kê đất năm 1997 xã P (bút lục số: 212).
[3.3] Trước thời điểm ông Văn K được cấp giấy chứng nhận quyền sử dng
đất thì thì vợ chồng cụ Đ, cụ D không có giấy tờ gì về quyền sử dụng đất theo Luật
đất đai năm 1987, 1993, 2003. Trên đất tranh chấp không có cây trng, không nhà
ở hoặc công trình, vật kiến trúc của vợ chồng cụ Đ, cụ D. Ủy ban nhân dân huyện T
căn cứ quá trình sử dụng đất, đăng ký kê khai theo quy định ca pháp luật về đất đai,
xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Văn K đúng thẩm quyền,
đúng đối tượng quyền sử dụng đất nêu trên không còn di sản thừa kế theo hướng
dẫn tại mục II khoản 1 của Nghị quyết số: 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong
việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình.
[3.4] Căn cứ các nhận định nêu trên, Tòa án cấp phúc thẩm xét thấy Tòa án
cấp sơ thẩm đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật giải quyết vụ án, bác yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn căn cứ, phợp với quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên
tòa phúc thẩm. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc nguyên đơn phải chịu hai
khoản án phí không giá ngạch tương ứng số tiền: 600.000đ chưa chính xác
yêu cầu khởi kiện hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không được Tòa án chấp
nhận thì nguyên đơn cũng không phải chịu án phí. Đối với yêu cầu chia thừa kế
không được Tòa án chấp nhận thì ông M phải chịu 300.000đ ng M từ đủ 60 tuổi
nhưng không có đơn xin miễn án phí sơ thẩm). Tòa án cấp phúc thẩm điều chỉnh lại
số tiền án phí sơ thẩm, ông M phải chịu 300.000đ.
[4] Ông Văn M người cao tuổi thuộc đối tượng được xem xét miễn án
phí theo quy định tại các Điều 12, 13, đơn đề nghị miễn án phí theo quy định tại
Điều 14 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc Hội nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng: Điều 308 khoản 1; Điều 313 khoản 6; các Điều 12, 13, 14 của Nghị
quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của ông Văn M, giữ nguyên
bản án dân sự thẩm số 13/2024/DS-ST ngày 11/7/2024 của a án nhân dân huyện
T, tỉnh Ninh Thuận.
2. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Văn M đối với ông Văn K
tranh chấp chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật yêu cầu hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất do UBND
huyện T cấp cho ông Lý Văn K sbìa: BX 313357 vào sổ cấp: CH 00087 ngày cấp
23/6/2015, thửa đất số: 135, tờ bản đsố: 16 thôn B, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận
(Ông Lý Văn K là người đang chiếm hữu, sử dụng thửa đất).
3. Chi phí thẩm định, định giá: Nguyên đơn tự nguyện chịu 3.600.000đ ã
nộp đủ tiền).
4. Án phí:
4.1. Ông Văn M phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm được khấu trừ
vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0001443 ngày 12/10/2022, của
Chi cục Thi hành án Dân sự huyện T, ông M đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
4.2. Ông Lý Văn M được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
Án xử công khai phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
19/3/2025./.
Nơi nhận:
- TAND huyện T;
- VKSND tnh Ninh Thun;
- Chi cục THADS huyện T;
- Các đương sự;
- Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và THA;
- Phòng HCTP;
- Lưu hồ sơ, án văn.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký và đóng dấu)
Hàng Lâm Viên
Tải về
Bản án số 10/2025/DS-PT Bản án số 10/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 10/2025/DS-PT Bản án số 10/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất