Bản án số 09/2025/HNGĐ-ST ngày 22/07/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 5 - Khánh Hòa, tỉnh Khánh Hòa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 09/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 09/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 09/2025/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 09/2025/HNGĐ-ST ngày 22/07/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 5 - Khánh Hòa, tỉnh Khánh Hòa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 5 - Khánh Hòa, tỉnh Khánh Hòa |
Số hiệu: | 09/2025/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 22/07/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Thái Thị Minh H |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 5 – KHÁNH HÒA
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 09/2025/HNGĐ-ST
Ngày: 22 - 7 - 2025
Về việc tranh chấp “Ly hôn, nuôi con”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 5, TỈNH KHÁNH HÒA
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phạm Thị Dung.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Trần Hoàng Liên.
2. Bà Nguyễn Thị Minh Trâm.
- Thư ký phiên tòa: Ông Trần Mạnh Long – Thư ký Tòa án nhân dân khu
vực 5, tỉnh Khánh Hòa.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 5, tỉnh Khánh Hòa tham gia
phiên tòa: Bà Lê Nguyễn Tường Vi - Kiểm sát viên.
Ngày 22 tháng 7 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân khu vực 5, tỉnh
Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số
193/2025/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 4 năm 2025 về việc tranh chấp “Ly hôn,
nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2025/QĐXXST-HNGĐ ngày
09/7/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Thái Thị Minh H, sinh năm 1976 (có đơn xin vắng mặt).
2. Bị đơn: Ông Trương C, sinh năm 1971 (xin vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Số B đường N, tổ dân phố F, phường Đ, tỉnh Khánh Hòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Thái Thị
Minh H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Trương C tự nguyện tìm hiểu tiến đến hôn
nhân, đã tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND phường P, thành phố P -
T, tỉnh Ninh Thuận theo Giấy chứng nhận kết hôn số 111, quyển số 01.08 ngày
05/11/2008.
Sau khi kết hôn vợ chồng bà chung sống cùng gia đình chồng tại thôn V,
xã P, huyện N. Thời gian này bà đang công tác tại Trường M, huyện T nên bà ở
lại nhà tập thể dành cho giáo viên, cuối tuần mới về nhà chồng. Đến cuối tháng 6
năm 2010, sau khi sinh con gái Trương Thục U thì bà không còn ở nhà tập thể mà
chuyển về ở cùng gia đình chồng. Qúa trình sống chung, vợ chồng đã phát sinh
nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân:

2
- Do bất đồng quan điểm sống: Vì bản tính hiền lành nên công việc làm ăn
và nguồn thu nhập cá nhân của ông C đều do gia đình bên chồng quản lý (mẹ
chồng và em chồng), bản thân bà không được biết (đưa bao nhiêu tiền chi tiêu và
khoảng cách thời gian bao lâu thì tùy thuộc vào gia đình chồng).
- Ông C không làm chủ được cuộc sống của gia đình riêng, mọi việc phải
tùy vào sự quyết định của gia đình bên chồng: Tháng 2 năm 2013, do mâu thuẫn
với gia đình chồng (mẹ chồng đuổi hai mẹ con bà ra khỏi nhà) nên bà đã thuê nhà
trọ để 02 mẹ con sinh sống. Trong khoảng thời gian hơn 04 năm chỉ có bà và cháu
U sinh sống ở nhà trọ. Ông C vẫn sinh sống cùng gia đình tại thôn V, xã P, huyện
N. Vì cháu U còn quá nhỏ nên bà vẫn chấp nhận và cố giữ mối quan hệ vợ chồng
để tránh làm tổn thương cho con. Cuộc sống của bà và cháu U chủ yếu dựa vào
nguồn thu nhập cá nhân bà. Đến tháng 12 năm 2017, vợ chồng bà có mua lại căn
nhà hiện tại (số B N, phường Đ, tỉnh Khánh Hòa) từ em chồng.
- Vợ chồng bà đã sống ly thân từ tháng 9 năm 2019: Vì con nên bà đã nhiều
lần cố gắng hòa giải, cải thiện mối quan hệ nhưng không thành. Hiện nay, vợ
chồng không còn tình cảm, không quan tâm, chăm sóc nhau, sống ly thân từ tháng
9 năm 2019 cho đến nay. Cuộc sống hằng ngày cũng như mỗi khi tết đến, hai mẹ
con bà tự lo mọi việc trong gia đình (mua sắm, cúng ngày tết,…). Còn ông C sống
như 01 người khách ở trọ, tối về nhà ngủ đến sáng ngày hôm sau đi lại, cuộc sống
của bà chẳng khác nào như “người mẹ đơn thân”. Hơn 05 năm qua, bà đã chuẩn
bị tâm lý cho con gái về cuộc sống hôn nhân giữa cha và mẹ. Chuyện gia đình, bà
và con hạn chế cho mọi người xung quanh biết, chỉ có gia đình hai bên, những
người bạn, đồng nghiệp thân thiết quan tâm, hỗ trợ về tinh thần lẫn vật chất cho
hai mẹ con thì mới biết rõ về tình trạng hôn nhân của bà. Hiện tại, mục đích hôn
nhân không đạt được, đời sống vợ chồng không thể tiếp tục nên bà đề nghị Tòa
án giải quyết cho bà được ly hôn ông Trương Chẩn .
Về con chung: Bà và ông Trương C có 01 con chung tên Trương Thục U,
sinh ngày 17/11/2009. Khi ly hôn, bà có yêu cầu được nuôi cháu U và không yêu
cầu ông Trương C cấp dưỡng nuôi con.
Hiện nay, bà làm việc tại Hội đồng nhân dân xã N, tỉnh Khánh Hòa thu
nhập hàng tháng khoảng 11.000.000 đồng, đủ điều kiện nuôi dưỡng chăm sóc con
chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Bà và ông C tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa
án giải quyết.
Tại bản khai và quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Trương C trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Thái Thị Minh H tự nguyện tìm hiểu, tiến
đến hôn nhân, có tổ chức cưới hỏi và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P,
huyện N vào năm 2008. Sau khi kết hôn vợ chồng ông sống tại cha mẹ ông tại xã
P, cuộc sống hôn nhân diễn ra bình thường. Từ năm 2017 đến nay, vợ chồng ông
chuyển về sống tại nhà riêng ở số B đường N, phường Đ. Ông và bà H vẫn sống
chung nhà nhưng đã ly thân được khoảng 02 – 03 năm. Hằng ngày, vợ chồng
không trao đổi, nói chuyện, không có sự quan tâm, chia sẻ với nhau, mệnh ai nấy
sống. Nay bà H yêu cầu được ly hôn, ông không đồng ý với yêu cầu này của bà H

3
vì việc ông và bà H sống ly thân là mâu thuẫn bình thường trong quan hệ vợ
chồng, ông không có hành vi bạo lực gì đối với bà H.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Trương Thục U, sinh ngày
17/11/2009. Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H, ông đồng
ý giao cháu U cho bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ông không phải cấp
dưỡng nuôi con do bà H không yêu cầu.
Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 5, tỉnh Khánh Hòa phát biểu:
Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị
án, việc thu thập chứng cứ, lấy lời khai của đương sự, việc cấp, tống đạt các giấy
tờ cho Việt kiểm sát và những người tham gia tố tụng đúng theo quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự. Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng các quy định của Bộ
luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định về phiên tòa sơ
thẩm. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng.
Về quan điểm giải quyết nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, trình bày
của đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền
giải quyết: Nguyên đơn bà Thái Thị Minh H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết
ly hôn, nuôi con chung với bị đơn ông Trương Chẩn . Hội đồng xét xử xác định
quan hệ pháp luật là tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo khoản 1 Điều 28 của Bộ
luật tố tụng dân sự. Bị đơn ông Trương C có địa chỉ cư trú ở phường Đ, tỉnh Khánh
Hòa nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân khu vực 5, tỉnh Khánh
Hòa theo khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về tranh chấp hôn nhân: Bà Thái Thị Minh H và ông Trương C kết
hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã P,
huyện N cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 111, quyển số 01.08 ngày 05/11/2008,
nên đây là hôn nhân hợp pháp.
[2.2] Về quan hệ hôn nhân:
Bà Thái Thị Minh H xin ly hôn với ông Trương C với lý do vợ chồng phát
sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, ông C không làm chủ được cuộc
sống gia đình, mọi việc phải tùy vào sự quyết định của gia đình bên chồng, vợ
chồng không còn tình cảm, không quan tâm, chăm sóc nhau và đã sống ly thân từ
tháng 9 năm 2019. Nay bà đã không còn tình cảm vợ chồng nên yêu cầu Tòa án
cho ly hôn với ông C.
Ông C thừa nhận lời trình bày của bà H về việc vợ chồng sống ly thân là
đúng. Hằng ngày, vợ chồng ông không trao đổi, nói chuyện, không có sự quan
tâm, chia sẻ với nhau, mệnh ai nấy sống. Tuy nhiên ông không đồng ý với yêu

4
cầu ly hôn của bà H vì ông không rõ nguyên nhân bà H xin ly hôn, việc ông và bà
H ly thân là mâu thuẫn bình thường trong quan hệ vợ chồng, ông không có hành
vi bạo lực gì đối với bà H.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 07 tháng 7 năm 2025, bà Văn Thị Minh T
cho biết: Bà là hàng xóm sống gần nhà bà H, ông C. Trong cuộc sống hàng này,
bà không biết bà H, ông C có mâu thuẫn gì không nhưng bà H, ông C thường
không đi cùng nhau. Khi sang nhà chơi thì bà thấy bà H, ông C không nói chuyện
với nhau, không có sự quan tâm chăm sóc nhau. Từ khi chuyển về sinh sống tại
gần nhà bà từ cuối năm 2017 đến nay thì bà thấy tình trạng hôn nhân của bà H và
ông C diễn ra như vậy. Khi bà và bà H nói chuyện thì bà H có tâm sự cuộc sống
hôn nhân của bà H và ông C không hạnh phúc, mặc dù sống chung nhà nhưng vợ
chồng đã ly thân nhiều năm, mệnh ai nấy sống, không nói chuyện, không quan
tâm đến nhau.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 08 tháng 7 năm 2025, bà Đặng Thị H1 cho
biết: Bà là mẹ ruột của bà H. Bà H, ông C kết hôn năm 2008, thời gian đầu vợ
chồng bà H sống hạnh phúc. Một thời gian sau, bà H có mâu thuẫn với gia đình
bên chồng và thuê trọ ra ở riêng. Khoảng năm 2017, bà H ông C mua nhà và sống
tại số B đường N. Tuy nhiên, bà H có tâm sự với bà về việc cuộc sống không hạnh
phúc, vợ chồng sống chung nhà nhưng đã ly thân, mỗi người một phòng. Bà có
chứng kiến việc vợ chồng bà H không giao tiếp, nói chuyện với nhau, không ăn
cơm chung. Bà H đi làm từ sáng đến chiều mới về nhà, buổi trưa cháu U ở nhà ăn
cơm chung với ba, đến chiều bà H về thì hai mẹ con nấu ăn hoặc ra ngoài ăn riêng,
ông C nấu ăn riêng hoặc qua nhà mẹ ruột để ăn cơm. Khoảng 05 – 06 năm gần
đây, vào dịp lễ tết hay khi gia đình bên vợ có công việc, ông C cũng không đến,
không qua lại với gia đình bên vợ.
Căn cứ lời trình bày của các bên cũng như lời khai của người làm chứng,
Hội đồng xét xử xét thấy: Mặc dù vẫn sống chung nhà nhưng bà H và ông C đã
có thời gian dài sống ly thân, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, không có sự
thấu hiểu, quan tâm, chăm sóc nhau. Khi bà H nộp đơn ly hôn, Tòa án thụ lý giải
quyết, ông C đã nhận được thông báo nhưng có thái độ bỏ mặc, không có thiện
chí hàn gắn tình cảm vợ chồng là không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều
19 Luật Hôn nhân và gia đình: “1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy,
tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các
công việc trong gia đình”.
Vì vậy, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, hôn nhân giữa bà H và
ông C đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly
hôn của bà H.
[2.3] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Trương Thục U, sinh
ngày 17/11/2009. Cháu U có nguyện vọng được ở với mẹ, bà H có yêu cầu được
trực tiếp nuôi con, ông C đồng ý giao con cho bà H nuôi dưỡng. Bà H có nghề
nghiệp, có thu nhập đủ khả năng nuôi con và không yêu cầu ông C cấp dưỡng
nuôi con nên Hội đồng xét xử giao cháu Trương Thục U, sinh ngày 17/11/2009
cho bà Thái Thị Minh H trực tiếp nuôi dưỡng, ông Trương C không phải cấp
dưỡng nuôi con.

5
[2.4] Tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải
quyết nên Hội đồng xét xử không xét.
[3] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 5 tại phiên
tòa là có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5
Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Thái Thị Minh H phải chịu 300.000 đồng án phí
ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 của Bộ Luật tố
tụng dân sự;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân
và Gia đình;
Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Thái Thị Minh
H.
1. Về hôn nhân: Bà Thái Thị Minh H được ly hôn với ông Trương Chẩn .
2. Về con chung: Giao cho bà Thái Thị Minh H được quyền trực tiếp nuôi
dưỡng 01 (một) con chung tên Trương Thục U, sinh ngày 17/11/2009.
Ông Trương C không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm
nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc
gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì
người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con
của người đó.
3. Về án phí: Bà Thái Thị Minh H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn
đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí là
300.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0001149 ngày 09/4/2025 của Chi
cục Thi hành án dân sự thành phố P – T, tỉnh Ninh Thuận (nay là Phòng thi hành
án dân sự khu vực 5, tỉnh Khánh Hòa). Bà Thái Thị Minh H đã nộp đủ án phí ly
hôn sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt nguyên đơn, bị đơn quyền kháng cáo
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ Bản án./.

6
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND khu vực 5;
- Cục THADS tỉnh Khánh Hòa;
- TAND tỉnh Khánh Hòa;
- UBND xã Ninh Phước;
- Lưu hồ sơ; án văn.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Phạm Thị Dung

7
8
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Bản án số 23/2025/HNGĐ-PT ngày 08/08/2025 của TAND TP. Cần Thơ về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm