Bản án số 07/2023/HS-ST ngày 14-12-2023 của TAND huyện Chợ Mới (TAND tỉnh Bắc Kạn) về tội trộm cắp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 07/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 07/2023/HS-ST ngày 14-12-2023 của TAND huyện Chợ Mới (TAND tỉnh Bắc Kạn) về tội trộm cắp tài sản
Tội danh: 173.Tội trộm cắp tài sản (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Chợ Mới (TAND tỉnh Bắc Kạn)
Số hiệu: 07/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 14/12/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: MA VĂN N, LƯỜNG VĂN Đ tội trộm cắp tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH BẮC KẠN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Lường Thị Thu Hòa.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Phạm Văn Ngọ và ông Nguyễn Tiến Tùng
- Thư ký phiên toà: Bà Lưu Thị Quỳnh - Thư ký Tòa án của Tòa án nhân dân
huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn tham gia
phiên tòa: Bà Đinh Thị Anh - Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh
Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 11/2023/TLST-
HS ngày 01 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
08/2023/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. MA VĂN N; tên gọi khác: Không có; sinh ngày 24 tháng 7 năm 1989 tại
Bắc Kạn; nơi đăng thường trú nơi hiện nay: Thôn K, N, huyện C, tỉnh
Bắc Kạn; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 05/12; Dân tộc: Tày;
Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Ma Văn L và bà
Lường Thị M; Vợ, con: không; Tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân:
- Bị Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn tuyên phạt 15 tháng
nhưng cho hưởng án treo về tội "Cố ý làm hư hỏng tài sản" tại Bản án số
35/2010/HSST ngày 12/11/2010. Đến ngày 12/8/2023 đã được xóa án tích.
Bị cáo đang btạm giam trong một vụ án khác tại Trại tạm giam Công an tỉnh B.
Có mặt.
2. LƯỜNG VĂN Đ: tên gọi khác: Không có; sinh ngày 22 tháng 8 năm 1996
tại Bắc Kạn; nơi đăng thường trú nơi hiện nay: Tổ C, thị trấn Đ, huyện C,
tỉnh Bắc Kạn; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc:
Nùng; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lường
Văn Q và bà ờng Thị T; Vợ, con: không; Tiền án, tiền sự: Không;
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CHỢ MỚI
TỈNH BẮC KẠN
Bản án số: 07/2023/HS-ST
Ngày 14/12/2023
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Nhân thân:
- Ngày 12/7/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn xử phạt
24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đã được xóa án tích.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 18/8/2023, đến ngày 27/8/2023 được hủy bquyết
định tạm giữ. Tại ngoại cho đến nay, có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo Ma Văn N: Ông Hoàng Đình T1 - Luật sư thực
hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh B. Có mặt.
- Bị hại:
1. Ông Triệu Nguyên V; sinh năm 1975; Trú tại: Thôn K, xã N, huyện C, tỉnh
Bắc Kạn. Có mặt.
2. Đặng Thị H; Sinh năm 1976; Trú tại: Thôn K, N, huyện C, tỉnh Bắc
Kạn.
Người đại diện theo ủy quyền của Đặng Thị H: Ông Triệu Nguyên V; sinh
năm 1975; Trú tại: Thôn K, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hvụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ sáng ngày 12/8/2023, tại nhà của Ma Văn N (thuộc thôn K,
N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn), N đã cùng với Lường Văn Đ (trú tại tổ C, thị trấn Đ,
huyện C, tỉnh Bắc Kạn) rủ nhau đi xem ai tài sản thì trộm cắp để bán lấy tiền
tiêu sài. N cùng Đ đi bộ từ nhà của N qua một khe nước rồi đi tiếp theo đường mòn
dân sinh đến khu vực khe K, thuộc thôn K, N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Tại đây,
Đ N phát hiện 02 xe gồm 01 xe Yamaha Taurius màu đen (Không
biển kiểm soát) 01 xe Yamaha Sirius màu đỏ đen BKS 97B2-045.73 của anh
Triệu Nguyên V vợ chị Đặng Thị H (trú tại thôn K, N, huyện C, tỉnh Bắc
Kạn) mang đi làm, đang dựng cạnh đường. Lúc này, Ma Văn N đứng cảnh giới
còn Lường Văn Đ dùng tô vít để lần lượt phá khóa 02 chiếc xe nhưng không được.
Sau đó, N đi đến giữ yếm xe để Đ dùng vít để mở yếm xe tô Yamaha Sirius
màu đỏ đen với mục đích rút dây điện khóa xe. Sau khi rút dây điện, Đ nhặt một
mẩu dây điện ở cạnh đường đấu nối lại rồi lên xe, đạp nổ máy và điều khiển chở N
đi ra đường B - Chợ M, rẽ theo hướng đền T2 để ra đường Quốc lộ 3. Khi đi đến
khu vực thuộc thôn Đ, Y, huyện P, tỉnh Thái Nguyên thì Đ dùng tay không bẻ
biển số xe, ném vào cạnh đường (Sau này, Cơ quan điều tra đã tìm lại được biển số
xe) Tiếp đó, Đ N mang xe mô tô đi bán tại một cửa hàng tại Y, huyện P, tỉnh
Thái Nguyên nhưng không bán được. Sau đó, Đ điều khiển xe về một căn
nhà hoang thuộc thôn C, Q, huyện C, tỉnh Bắc Kạn và cùng N đó. Đến chiều
ngày 13/8/2023, Đ chở N về khu vực cầu B thuộc tổ I, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh
3
Bắc Kạn thì N xuống xe còn Đ tiếp tục sử dụng xe mô tô vừa trộm cắp được. Cũng
trong ngày 13/8/2023 Đ một mình điều khiển xe này đi đến khu vực giáp
ranh giữa Q, huyện C V, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên bẻ trộm Biển kiểm
soát 20B1-744.82 của xe mô tô của ông Dương Văn D, sinh năm 1962, trú tại xóm
L, xã V, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên lắp vào xe mô này để nhằm che giấu việc
trộm cắp chiếc xe. Quá trình sử dụng, Lường Văn Đ đã tháo bỏ hai gương xe vứt đi
(Đoàn không nhớ là vứt đâu), tháo bỏ 02 cánh yếm hai bên của xe đnhà anh
Nguyễn Văn T3, sinh năm 1979, thuộc tổ F, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.
Đến ngày 17/8/2023, khi đang điều khiển xe đi tại đường liên T - Q thuộc thôn
Đ, xã Q, huyện C, tỉnh Bắc Kạn thì Lường Văn Đ bị Tổ công tác Đội Cảnh sát điều
tra tội phạm về Hình sự - Kinh tế - Ma túy Công an huyện C phối hợp với Công an
xã Q phát hiện.
Quá trình điều tra, đã tiến hành tạm giữ của Lường Văn Đ: 01 giả da; 02
dây chạc dứa màu vàng, 01 dây cao su, 01 kìm kim loại, 01 kéo loại dùng trong
may vá, 01 bao tải dứa màu xanh, 01 mỏ lết, 01 cờ lê, 01 túi nhựa màu đen bên
trong 01 đầu khẩu tuýp mở bugi, 04 ốc vít, 01 cờ hai đầu dài 12,5cm, 01 vít
lục giác (Những đồ vật này được cho vào 01 túi nilon màu xanh được niêm
phong theo quy định). Đồng thời, thu giữ 01 xe không cánh yếm hai bên
không ơng chiếu hu s máy E32VE246028, số khung
RLCUE3720LY047924, BKS 97B2-045.73; 02 cánh yếm xe mô tô nhãn hiệu
Yamaha Sirius.
Tại Kết luận định giá tài sản số 27/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 16/8/2023 của
Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C kết luận: Giá trị của một
chiếc xe tô đã qua sdụng, đặc điểm: Nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu
sơn đỏ, đen, số máy E32VE246028, số khung RLCUE3720LY047924, BKS 97B2-
045.73 mua ngày 03/3/2021 đến thời điểm xảy ra sự việc mất trộm ngày 12/8/2023
giá trị là 14.329.500 (Mười bốn triệu, ba trăm hai mươi chín nghìn, năm trăm)
đồng.
Quá trình điều tra, xác định chiếc xe tô nhãn hiệu Yamaha Sirius BKS
97B2-045.73 Lường Văn Đ Ma Văn N trộm cắp tài sản chung của anh
Triệu Nguyên V, sinh năm 1975 vợ là chĐặng Thị H, sinh năm 1976, cùng t
tại thôn K, N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Chị H anh V đã thống nhất cử anh
Triệu Nguyên V đại diện tham gia tố tụng.
Trong quá trình điều tra, Lường Văn Đ thành khẩn khai nhận toàn bộ hành
vi phạm tội của mình về thời gian, địa điểm, cách thức thực hiện, cất giấu số
lượng tài sản trộm cắp. Đ khai sau khi ngủ dậy tại nhà N thì Đ N cùng rủ nhau
đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài. Khi trộm cắp chiếc xe nhãn hiệu
Yamaha Sirius, màu sơn đỏ đen thì Đ người trực tiếp thực hiện việc mở yếm xe
4
rút dây điện, cho xe nổ máy, quá trình thực hiện ban đầu N đứng cảnh giới sau
đó N cũng trực tiếp giữ yếm xe đhỗ trợ Đoàn. Đ người bẻ biển kiểm soát của
xe vứt đi, đến ngày 13/8/2023 t trộm cắp biển kiểm soát số 20B1-
744.82 để gắn vào chiếc xe này tránh bị phát hiện. Việc Đ mở 02 cánh yếm xe để
tại nhà anh Nguyễn Văn T3 để tránh bị phát hiện và anh T3 không biết về việc
chiếc xe này do Đ N trộm cắp có. Gương của xe đã bị Đ bẻ vứt
đi nhưng không nhớ vứt đâu vào thời gian nào. Chiếc vít dùng để mở xe
thực hiện việc trộm cắp là của Đ tự chế từ cây thép, Đ đã vứt trên đường ở khu vực
cầu B nhưng không nhớ vị tnào. Đối với những đồ vật quan điều tra thu
giữ, 01 ví giả da của nhân ng đựng tiền giấy tờ nhân; các đồ vật
còn lại là của Đ, do Đ mua nhặt được có, mang theo để phục vụ cho mục
đích trộm cắp tài sản. Việc đi trộm cắp tài sản là cả N và Đ cùng rủ nhau đi, không
có phân công nhiệm vụ cụ thể.
Ma Văn N khai nhận: N cùng với Đ rủ nhau đi trộm cắp tài sản để bán lấy
tiền mua ma túy sử dụng do cả hai cùng nghiện ma y. Việc thực hiện trộm cắp
không sự phân công cụ thể. Khi Đ thực hiện mở xe rút dây điện thì N đứng
cảnh giới, ngoài ra N hộ Đ giữ yếm xe để Đ cùng Đ thực hiện được nhanh hơn.
Sau khi trộm cắp được chiếc xe Yamaha Sirius màu đỏ đen, Đ N đã đi
tìm chỗ để bán nhưng không bán được và cả hai đến một ngôi nhà hoang thuộc địa
phận Q để tránh bị phát hiện. Đến ngày 13/8/2023 thì Đ chở N đến khu vực cầu
B thuộc thị trấn Đ, huyện C để N về nhà còn Đ đi đâu N không rõ.
Anh Triệu Nguyên V khai: Sáng ngày 12/8/2023, anh vợ chị Đặng Thị
H đi hái chè của gia đình tại khu vực khe K, thôn K, N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.
Khi đến nơi, hai vợ chồng dựng hai chiếc xe BKS 97B2-045.73 xe mô tô
BKS 97F7-9771 đường dân sinh rồi lên đồi hái chè. Đến khoảng 10 gi20 phút
cùng ngày khi hai vợ chồng ra lấy xe về thì phát hiện xe BKS 97B2-045.73
đã bmất trộm. Chiếc xe là tài sản chung của vchồng mua vào tháng 3/2021 với
giá 22.000.000 đồng. Khi xe bị trộm cắp thì trong cốp xe không đvật, tài sản
nào khác.
Đối vi vt chứng đ vt, tài liu tm gi ca v án: quan CSĐT
Công an huyn C đã trả li cho anh Triu Nguyên V: 01 chiếc xe đã qua
s dng nhãn hiu Yamaha Sirius s máy E32VE246028, s khung
RLCUE3720LY047924, BKS 97B2-045.73 02 cánh yếm của xe. quan điu
tra đã chuyển chiếc BKS 20B1-744.82 cho Công an huyện Đ để gii quyết theo
thm quyn. Còn s tài sản, đồ vt còn li hiện được bo quản theo đúng quy đnh
để ch x lý.
Quá trình điều tra xác định ngày 12/11/2010, bị cáo Ma Văn N bị Tòa án
nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 15 tháng cho hưởng án treo về
5
tội “Cố ý làm hỏng tài sản” tại Bản án số 35/2010/HSST: Bị cáo đã chấp hành
xong hình phạt chính vào ngày 12/5/2013. Chưa chấp hành nghĩa vụ bồi thường
dân sự đối với Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Bắc Kạn.
Bản án số 05/2023/HS-ST ngày 23/11/2023 của Tòa án nhân dân huyện Chợ
Mới tuyên phạt bị cáo Ma Văn N 15 (Mười lăm) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép
chất ma y" (Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra vào ngày 16/8/2023).
Hiện nay Bản án chưa có hiệu lực pháp luật.
Ngày 12/10/2023, bcáo Lường Văn Đ bị Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới,
tỉnh Bắc Kạn ra quyết định áp dụng biện pháp xử hành chính đưa vào sở cai
nghiện bắt buộc theo quyết định số 02/2023/QĐ-TA ngày 12/10/2023.
Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại tài sn 01 xe nhãn hiu
Yamaha Sirius BKS 97B2-045.73 và 02 cánh yếm của xe, anh Triu Nguyên V
không đề ngh các b cáo phi bồi thường gì thêm.
Tại Cáo trạng số 47/CT-VKS-CM ngày 30 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm
sát nhân dân huyện ChMới, tỉnh Bắc Kạn truy tLường Văn Đ Ma Văn N về
tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
* Tại phiên tòa:
- Các bị cáo Lường Văn Đ Ma Văn N thành khẩn khai nhận hành vi vi
phạm của mình.
- Người bị hại Triệu Nguyên V, đồng thời người đại diện của bị hại Đặng
Thị H ý kiến: Về trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét
xử, xét xử theo quy định. Về trách nhiệm dân sự: Không yêu cầu các bị cáo bồi
thường thiệt hại.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới giữ nguyên quyết định truy
tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
+ Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Lường Văn Đ và Ma Văn N phạm tội
“Trộm cắp tài sản”.
+ Về hình phạt:
Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 17, Điều 38; Điều 50; Điều 58; điểm s khoản
1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bcáo Lường Văn Đ từ 13 đến 16 tháng
tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ đi thời
gian tạm giữ.
Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 17, Điều 38; Điều 50; Điều 58; điểm s khoản
1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Ma n N từ 12 đến 15 tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày thi hành án.
6
+ Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung với các bị
cáo do các bị cáo đều người nghiện ma túy, không nghề nghiệp không
thu nhập ổn định, đều không có tài sản riêng nào có giá trị. Bị cáo Ma Văn N thuộc
hộ cận nghèo.
+ Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại
do đó đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
+ Về xử lý vật chứng, tài liệu đồ vật thu giữ trong vụ án:
Đối với các vật chứng: 02 dây chạc dứa màu vàng, mỗi dây dài 3,4m, 01 dây
cao su màu đen, rộng 1,7cm, dài 2,5cm; 01 chiếc kìm bằng kim loại dài 18,5cm; 01
chiếc kéo lưỡi cắt bằng kim loại, tay cầm bằng nhựa đỏ; 01 bao tải dứa màu xanh;
01 mỏ lết bằng kim loại màu xám đen dài 25cm; 01 cờ lê hai đầu mở bằng kim loại
dài 18,5cm màu xám đen; 01 túi nhựa màu đen bên trong 01 đầu khẩu tuýp mở
bugi bằng kim loại màu trắng, 04 ốc vít, 01 cờ dài 12,5cm, 01 chiếc vít lục giác
hình chữ L dài 7cm: công cụ phương tiện phạm tội, không còn giá trị, do đó đề
nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu, tiêu hủy.
Đối với 01 chiếc giả da màu nâu đã đồ dùng nhân của Lường Văn
Đ, không liên quan tới hành vi phạm tội. Đoàn ý kiến: Chiếc da hiện không
còn giá trị, do đó không yêu cầu lấy lại. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu,
tiêu hủy.
- Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Ma Văn N: Nhất trí với quan
điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt
bị cáo Ma Văn N với mức án thấp nhất trong khung hình phạt đại diện Viện kiểm
sát đề nghị là 12 tháng tù.
- Các bị cáo nhất trí với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không
bào chữa, không tranh luận. Tại lời nói sau cùng, các bị cáo đều thừa nhận hành vi
phạm tội và đều đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử; chứng cứ, tài liệu do quan điều tra, Điều tra viên, Viện
kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập, do các bị cáo và những người tham gia tố tụng
khác cung cấp đều đảm bảo theo quy định của pháp luật.
[2] Về tội danh:
7
Tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi vi phạm, lời khai của
các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với những tài liệu, chứng cứ khác trong hồ
vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Từ đó có đủ cơ sở xác định:
Khoảng 09 giờ ngày 12/8/2023, tại đường dân sinh thuộc khu vực khe K,
thôn K, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn, ờng Văn ĐMa Văn N đã cùng nhau có
hành vi trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius BKS 97B2-045.73 có
giá trị 14.329.500 (Mười bốn triệu ba trăm hai mươi chín nghìn năm trăm) đồng
của anh Triệu Nguyên V và chị Đặng Thị H với mục đích bán lấy tiền phục vụ tiêu
xài cá nhân.
Hành vi vi phạm của các bcáo nguy hiểm cho hội được quy định trong
Bộ luật Hình sự, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Các bị cáo
đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi
cố ý trực tiếp.
Như vậy, hành vi của Lường Văn Đ và Ma Văn N đủ yếu tố cấu thành tội
Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Điều luật có nội dung:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến
dưới 50.000.000 đồng…, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt
tù từ 06 tháng đến 03 năm.
………………………………
5. Người phạm tội còn thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000
đồng.”.
Từ những căn cứ trên, xét thấy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện
Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn truy tLường Văn Đ Ma Văn N về tội "Trộm cắp tài
sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] V tính cht mức độ nguy him cho hi ca hành vi phm ti, vai
trò ca các bo trong v án:
Ti phm ca ờng Văn Đ và Ma Văn N đã thc hin là ti phm ít nghiêm
trng, tính cht mức độ nguy him cho hi không lớn, tuy nhiên đã làm
ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự và an toàn xã hội tại địa phương.
Đây là trường hợp đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng nhau thực hiện hành
vi phạm tội, đều người thực hành. Trong vụ án, Đoàn thể hiện vai ttích cực
hơn, thể hiện: Phương tiện, công cụ phạm tội đều của Đ, trong quá trình thực
hiện hành vi trộm cắp chiếc xe máy, Đoàn đều thể hiện sự chủ động, tích cực hơn
N như trực tiếp là người phá khóa, đấu nối dây điện để trộm xe, người chủ động
đi kiếm biển giả để lắp vào chiếc xe trộm cắp được, tháo bỏ 02 cánh yếm của xe để
8
ở nhà anh Nguyễn Văn T3 để che giấu hành vi phạm tội. Còn N có vai trò hạn chế
hơn, chủ yếu là người hỗ trợ Đ thực hiện hành vi.
[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Đối với bị cáo Ma Văn N: Đối với Bản án số 35/2010/HSST ngày
12/11/2010 của Tòa án nhân dân huyện ChMới, tỉnh Bắc Kạn: Bị cáo đã chấp
hành xong hình phạt chính vào ngày 12/5/2013. Về trách nhiệm bồi thường cho
nguyên đơn dân sự Ủy ban nhân dân huyện C, cho tới thời điểm thực hiện hành
vi phạm tội lần này đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự. Đồng thời, bị cáo
xác nhận đã nhận được thông tin từ Ủy ban nhân dân huyện C về việc không yêu
cầu bị cáo bồi thường số tiền 9.000.000 từ trước thời điểm ngày 16/8/2023. Do đó,
xác định bị cáo đã được xóa án tích.
Như vậy, xác định bị cáo nhân thân xấu. Bị cáo không tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự.
Ngoài ra, ngày 16/8/2023, bị cáo Ma Văn N hành vi tàng trữ trái phép chất
ma túy. Bản án số 05/2023/HS-ST ngày 23/11/2023 của Tòa án nhân dân huyện
Chợ Mới đã tuyên phạt bị cáo Ma Văn N 15 (Mười lăm) tháng về tội "Tàng trữ
trái phép chất ma túy" (Hiện nay Bản án chưa hiệu lực pháp luật). Việc này thể
hiện thái độ chấp hành pháp luật của bị cáo không tốt.
- Đối với bị cáo Lường Văn Đ: Ngày 12/7/2016, Bị cáo bị Tòa án nhân dân
huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 24 tháng về tội “Mua bán trái phép chất
ma túy”, đã được xóa án tích. Do đó, xác định bị cáo có nhân thân xấu.
Ngoài ra, ngày 12/10/2023, bị cáo Lường Văn Đ bị Tòa án nhân dân huyện
Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quyết định số 02/2023/QĐ-TA ngày 12/10/2023.
Quá trình điều tra, truy tố tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo thể
hiện thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó các bị cáo đều
được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ
luật Hình sự.
[5] Về hình phạt:
Trên sở quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất mức độ nguy
hiểm cho hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ tăng
nặng trách nhiệm hình sự:
Về hình phạt chính: Xét thấy cần buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tại
sở giam giữ trong một thời hạn nhất định để đảm bảo tính răn đe, giáo dục,
phòng ngừa chung.
Như đã nhận định trên, thể thấy vai trò của Lường Văn Đ trong vụ án
tích cực hơn so với Ma Văn N. Do đó, cần xem xét áp dụng hình phạt tương xứng
với vai trò của từng bị cáo trong vụ án.
9
Về hình phạt bsung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định về
hình phạt bổ sung đối với người phạm tội. Tuy nhiên, các bcáo đều nghiện ma
túy, đều không nghề nghiệp không thu nhập ổn định, không tài sản
riêng giá trị, bị cáo Ma Văn N thuộc hộ cận nghèo. Xét thấy, việc áp dụng hình
phạt bổ sung không khả thi do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các
bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự:
Bị hại Triệu Nguyên V đồng thời là đại diện theo ủy quyền của bị hại Đặng
Thị H không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem
xét.
[7] Về vật chứng:
- Đối với các vật chứng: 02 dây chạc dứa màu vàng, mỗi dây dài 3,4m, 01 dây
cao su màu đen, rộng 1,7cm, dài 2,5cm; 01 chiếc kìm bằng kim loại dài 18,5cm; 01
chiếc kéo lưỡi cắt bằng kim loại, tay cầm bằng nhựa đỏ; 01 bao tải dứa màu xanh;
01 mỏ lết bằng kim loại màu xám đen dài 25cm; 01 cờ lê hai đầu mở bằng kim loại
dài 18,5cm màu xám đen; 01 túi nhựa màu đen bên trong 01 đầu khẩu tuýp mở
bugi bằng kim loại màu trắng, 04 ốc vít, 01 cờ dài 12,5cm, 01 chiếc vít lục giác
hình chữ L dài 7cm: Đều công cụ, phương tiện phạm tội, không còn giá trị, do
đó cần tuyên tịch thu, tiêu hủy.
- Đối với 01 chiếc ví giả da màu nâu đã cũ là đồ dùng cá nhân của Lường Văn
Đ, không liên quan tới hành vi phạm tội. Đoàn ý kiến: Chiếc da hiện không
còn giá trị, không yêu cầu lấy lại. Do đó cần tịch thu, tiêu hủy.
[8] Về các vấn đề khác:
- Đối với anh Nguyễn Văn T3 người đã cho Lường Văn Đ gửi 02 chiếc
yếm của xe mô tô BKS 97B2-045.73 ti nhà, anh T3 không biết đây là tài sn do Đ
trm cp mà có nên Cơ quan điều tra không xem xét, xử lý là có cơ sở.
- Trong ván này, Lường Văn Đ trộm cắp 01 chiếc biển kiểm soát số 20B1-
744.82 của anh Dương Văn D, trú tại xóm L, xã V, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, Cơ
quan điều tra đã chuyển vật chứng cùng tài liệu đến Cơ quan CSĐT Công an huyện
Đ để xem xét, xử lý là đúng quy định.
[9] Về quan điểm giải quyết vụ án của Viện kiểm sát nhân dân và người bào
chữa:
- Xét thấy quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới của
người bào chữa cho bị cáo Ma Văn N vviệc giải quyết vụ án căn cứ, phù
hợp với quy định của pháp luật, cần được chấp nhận.
[10] Về án phí:
- Bị cáo Ma Văn N nhân thuộc hộ cận nghèo đơn xin miễn án phí,
xét thấy cần miễn án phí sơ thẩm cho bị cáo.
10
- Bị cáo Lường Văn Đ phải chịu án phí hình sự thẩm theo quy định của
pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lường Văn Đ bị cáo Ma Văn N phạm tội
Trộm cắp tài sản
2. Về hình phạt:
- Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58; điểm s
khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lường Văn Đ 13 (Mười ba)
tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được trừ đi
thời gian tạm giữ từ ngày 18/8/2023 đến ngày 27/8/2023.
- Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58; điểm s
khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bcáo Ma Văn N 12 (Mười hai)
tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày thi hành án.
3. Về vật chứng:
Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu, tiêu hủy đối với: 02 dây chạc dứa màu vàng, mỗi dây dài 3,4m, 01
dây cao su màu đen, rộng 1,7cm, dài 2,5cm; 01 chiếc kìm bằng kim loại dài
18,5cm; 01 chiếc kéo lưỡi cắt bằng kim loại, tay cầm bằng nhựa đỏ; 01 bao tải dứa
màu xanh; 01 mỏ lết bằng kim loại màu xám đen dài 25cm; 01 cờ lê hai đầu mở
bằng kim loại dài 18,5cm màu xám đen; 01 túi nhựa màu đen bên trong 01 đầu
khẩu tuýp mở bugi bằng kim loại màu trắng, 04 ốc vít, 01 cờ dài 12,5cm, 01
chiếc vít lục giác hình chữ L dài 7cm; 01 chiếc giả da màu nâu đã (Được
niêm phong trong 01 túi nilon màu xanh, trên mặt niêm phong 04 chữ ký, 01
dòng chữ ng Văn T4, 01 dòng chữ Lường Văn Đ, 01 dòng chữ Nguyễn Văn K,
01 dòng chữ Phạm Hồng H1 và 01 hình dấu tròn đỏ của Công an xã Q).
4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23, điểm đ
khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
- Bị cáo Ma Văn N được miễn án phí hình sự sơ thẩm.
- Bị cáo Lường Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự tngười được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7, 7a 9 Luật Thi
11
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự”.
4. Về quyền kháng cáo:
Căn cứ Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Các bị cáo, bị hại
quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
CÁC HI THM NHÂN DÂN
THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Văn Ngọ
Nguyễn Tiến Tùng
Lường Thị Thu Hòa
12
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lường Thị Thu Hòa
13
CÁC HI THM NHÂN DÂN
THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Văn Ngọ
Nguyễn Tiến Tùng
Lường Thị Thu Hòa
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lường Thị Thu Hòa
14
CÁC HI THM NHÂN DÂN
THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Thị Kim Thu
Hoàng Thị Thanh Tú
Lường Thị Thu Hòa
15
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lường Thị Thu Hòa
CÁC HI THM NHÂN DÂN
THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
16
Triệu Quang Trân
Nguyễn Tiến Tùng
Lường Thị Thu Hòa
Tải về
Bản án 07/2023/HS-ST Bắc Kạn Bản án 07/2023/HS-ST Bắc Kạn

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án 07/2023/HS-ST Bắc Kạn Bản án 07/2023/HS-ST Bắc Kạn

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất