Bản án số 06/2025/HNGĐ-ST ngày 15/05/2025 của TAND huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 06/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 06/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 06/2025/HNGĐ-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 06/2025/HNGĐ-ST ngày 15/05/2025 của TAND huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Chi Lăng (TAND tỉnh Lạng Sơn) |
| Số hiệu: | 06/2025/HNGĐ-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 15/05/2025 |
| Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Về quan hệ hôn nhân |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CHI LĂNG
TỈNH LẠNG SƠN
Bản án số: 06/2025/HNGĐ-ST
Ngày: 15-5-2025
V/v ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi
ly hôn
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHI LĂNG, TỈNH LẠNG SƠN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: bà Phan Thị Thanh Huyền.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Trịnh Thị Thuý Hà;
2. Bà Ngô Thị Thu Huyền.
- Thư ký phiên toà: bà Vy Thị Mai Hương - Thư ký Toà án nhân dân huyện Chi
Lăng, tỉnh Lạng Sơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơntham
gia phiên toà: bà Nguyễn Thị Vân - Kiểm sát viên.
Ngày 15 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chi Lăng,
tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 03/2025/TLST-HNGĐ,
ngày 14 tháng 01 năm 2025 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2025/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 4
năm 2025, Quyết định hoãn phiên toà số: 06/2025/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng
5 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: chị Nông Mỹ T, sinh năm 1988; địa chỉ: thôn L, xã N, huyện
C, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
- Bị đơn: anh Hoàng Văn H, sinh năm 1988; nơi cư trú: thôn N, xã H, huyện
H, tỉnh Lạng Sơn; nơi ở hiện nay: thôn L, xã N, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; vắng
mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên
toà nguyên đơn chị Nông Mỹ T trình bày và yêu cầu Toà án giải quyết các nội
dung:
Về quan hệ hôn nhân: chị và anh Hoàng Văn H được tự do tìm hiểu, gia
đình hai bên tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương và tự nguyện kết hôn
với nhau vào năm 2012 tại Ủy ban nhân dân (sau đây viết tắt: UBND) xã H, huyện
H, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị sống cùng bố mẹ chồng tại thôn
2
N, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn đến tháng 12 năm 2012 thì chị cùng con trai lớn
chuyển về nhà ngoại tại thôn L, xã N, huyện C tỉnh Lạng Sơn sinh sống, do có
mâu thuẫn con dâu mẹ chồng.
Đến tháng 12 năm 2013, chị xây một ngôi nhà cấp 04 tạm để ra ở riêng trên
đất của ông bà ngoại; cùng năm, chồng chị có lên ở cùng mẹ con chị. Từ năm
2015 đến năm 2019, vợ chồng chị có đi vào tỉnh Đồng Nai để làm ăn. Quá trình
chung sống, vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn do chồng chị thường xuyên tụ tập
bạn bè uống rượu, chơi cờ bạc, không tu trí làm ăn, còn đánh chị nhiều lần nhưng
chị nhẫn nhịn tha thứ vì thương các con. Những lần bị anh Hoàng Văn H đánh
đập chị đều không báo đến chính quyền địa phương do đang đi làm xa. Cuối năm
2019, vợ chồng chị trở về địa phương do mâu thuẫn nên chị đã định nộp đơn ly
hôn đến Toà án nhưng do mọi người khuyên bảo và đang có dịch Covid 19 nên
chị đã cho anh Hoàng Văn H một cơ hội để vợ chồng tiếp tục chung sống.
Khoảng năm 2020, khi chị mang thai con thứ ba, anh Hoàng Văn H cho
rằng không phải con của anh nên anh không nhận con; khi làm khai sinh chị đã
để con lấy họ mẹ. Vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng nhất vào năm 2020, chính thức
ly thân từ năm 2021 đến nay. Bản thân chị và gia đình bên ngoại cũng nhiều lần
khuyên bảo nhưng anh Hoàng Văn H vẫn không thay đổi. Nay vợ chồng ly thân
nhưng vẫn sống chung một nhà, nhưng không ai quan tâm đến ai, không còn tình
cảm vợ chồng. Anh Hoàng Văn H cho rằng vẫn còn tình cảm với vợ là không
đúng vì anh sống ích kỷ, không có trách nhiệm với gia đình, con cái, anh sợ khi
ly hôn xong anh sẽ không có nơi để sinh sống nên không hợp tác đến Toà án để
giải quyết. Chị yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hoàng Văn
H.
Về con chung: có 03 con chung là cháu Hoàng Sơn H1, sinh ngày 01-9-
2012; cháu Hoàng Thị Thu B, sinh ngày 05-11-2015; cháu Nông Phú L, sinh ngày
15-11-2021. Lý do cháu Nông Phú L khai sinh họ mẹ là vì khi chị mang thai, anh
Hoàng Văn H nghi ngờ chị ngoại tình, mang thai con của người khác nên đã không
nhận con. Khi ly hôn, chị yêu cầu được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục 03 con chung đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi và không yêu cầu
anh Hoàng Văn H phải cấp dưỡng nuôi 03 con chung.
Về điều kiện nuôi con: hiện chị đang bán quán cơm tại nhà, có thu nhập ổn
định trung bình từ 15.000.000 đồng - 16.000.000 đồng/tháng. Về điều kiện nơi ở,
gia đình chị hiện đã có nhà riêng xây nhờ trên đất của ông bà ngoại, ông bà ngoại
đồng ý sau khi chị ly hôn xong sẽ sang tên cho chị thửa đất để sinh sống và bán
hàng. Về điều kiện học tập: hiện cháu lớn Hoàng Sơn H1 đang học trường trung
học cơ sở xã B cách nhà 01km, hằng ngày cháu vẫn khác đạp xe đến trường không
cần ai phải đưa đón; cháu Hoàng Thị Thu B hiện đang học trường Tiểu học xã N
cách nhà 01km; cháu Nông Phú L hiện đang học trường mầm non xã N cách nhà
01km; hằng ngày hai cháu nhỏ vẫn do bố, mẹ thay nhau đưa đón đi học. Chi phí
học tập của 03 con từ trước đến nay đều do một mình chị đóng, anh Hoàng Văn
H không có trách nhiệm gì đối với các con.
Về tài sản chung: không yêu cầu Toà án giải quyết.
3
Về nợ chung: không có.
Về án phí: năm 2025, gia đình chị đã thoát hộ nghèo nên chị đề nghị giải
quyết theo quy định của pháp luật.
Tại Biên bản lấy lời khai bị đơn anh Hoàng Văn H trình bày: về quá trình
tìm hiểu và thời gian kết hôn đúng như chị Nông Mỹ T trình bày. Sau khi kết hôn,
vợ chồng anh sinh sống cùng bố mẹ anh tại thôn N, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn.
Khoảng năm 2012-2013, vợ chồng anh chuyển về thôn L, xã N, huyện C, tỉnh
Lạng Sơn xây nhà trên đất của bố, mẹ vợ cho để sinh sống và kinh doanh quan
cơm. Quá trình chung sống vợ, chồng có không có mâu thuẫn gì. Bản thân anh
thường xuyên đi làm xa nhà, vợ anh ở nhà đã đi ngoại tình với người đàn ông
khác, anh có đầy đủ bằng chứng, tuy nhiên đã bị vợ xóa đi hết. Anh vẫn còn tình
cảm với chị N Mỹ Trinh nên đã khuyên bảo nhưng không được, anh cố gắng
chung sống vì các con còn nhỏ. Nay chị Nông Mỹ T yêu cầu ly hôn, anh đồng ý
ly hôn.
Về con chung: có 03 con chung là cháu Hoàng Sơn H1, sinh ngày 01-9-
2012; cháu Hoàng Thị Thu B, sinh ngày 05-11-2015; cháu Nông Phú L, sinh ngày
15-11-2021. Trường hợp ly hôn, anh nhất trí với yêu cầu của chị N Mỹ Trinh được
quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 03 con chung đến khi
trưởng thành đủ 18 tuổi và anh không phải cấp dưỡng nuôi 03 con chung, do anh
chưa có thu nhập ổn định.
Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Toà án giải quyết.
Theo Biên bản lấy ý kiến của con chưa thành niên, cháu Hoàng Sơn H1,
cháu Hoàng Thị Thu B trình bày: đều có nguyện vọng mong muốn được ở cùng
mẹ, để mẹ nuôi các cháu ăn học được tốt nhất.
Tại Đơn trình bày của bà Nông Thị T1 (mẹ đẻ chị Nông Mỹ T) cho biết:
Sau khi kết hôn, chị Nông Mỹ T về nhà chồng sinh sống được 01 năm thì chuyển
về nhà bà sinh sống do có mâu thuẫn với mẹ chồng. Năm 2013, vợ chồng bà cho
con gái mượn mảnh đất để con xây nhà ra ở riêng, sau đó bà thấy con rể chuyển
lên sống cùng. Từ năm 2015 đến năm 2019, cả gia đình con gái bà đi miền N làm
ăn, đến cuối năm 2019 thì chuyển về. Khi về, con gái bà có nói chuyện vợ chồng
có mâu thuẫn muốn ly hôn, gia đình cũng khuyên bảo không nên ly hôn vì các
con còn nhỏ. Bà ở gần nên biết rõ anh Hoàng Văn H không tu trí làm ăn, chỉ mải
mê tụ tập bạn bè uống rượu, đánh bạc. Nay con gái bà mong muốn ly hôn, bà ủng
hộ. Sau khi con gái ly hôn, vợ chồng bà sẽ chuyển nhượng thửa đất cho con gái
và giúp đỡ con chăm sóc các cháu khi con gái bận bán hàng.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm về việc tuân theo
pháp luật: về tố tụng, nguyên đơn chấp hành đúng, đầy đủ quy định tại các Điều
70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chưa chấp hành đúng, đầy đủ quy định tại
các Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự; Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử
đã thực hiện đúng quy định pháp luật. Về nội dung vụ án: đề nghị Hội đồng xét
xử áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn
nhân và Gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nông Mỹ T, xử cho chị
Nông Mỹ T ly hôn với anh Hoàng Văn H và chị Nông Mỹ T được quyền trực tiếp
4
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 03 con chung cho đến khi đủ 18 tuổi.
Anh Hoàng Văn H không phải cấp dưỡng nuôi 03 con chung. Chị Nông Mỹ T
phải chịu án phí dân sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước theo quy định.
Các tài liệu, chứng cứ trong vụ án gồm: giấy chứng nhận kết hôn; giấy tờ
tuỳ thân; giấy khai sinh của con chung; các biên bản tống đạt văn bản tố tụng; bản
tự khai, các biên bản lấy lời khai, các biên bản lấy ý kiến của con chưa thành niên,
…
Các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh và các tình tiết mà các bên đã
thống nhất: chị Nông Mỹ T và anh Hoàng Văn H có đăng ký kết hôn số 19, Quyển
số 01, ngày 09-5-2012 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn và có
03 con chung là cháu Hoàng Sơn H1, sinh ngày 01-9-2012; cháu Hoàng Thị Thu
B, sinh ngày 05-11-2015; cháu Nông Phú L, sinh ngày 15-11-2021.
Quá trình giải quyết vụ án, chị Nông Mỹ T có đơn đề nghị Toà án không
tiến hành hoà giải vụ án. Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và thông báo kết quả cho anh Hoàng Văn H
được biết theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: chị Nông Mỹ T có đơn khởi kiện yêu
cầu ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn. Bị đơn anh Hoàng Văn H cư trú tại
thôn L, xã N, huyện C, tỉnh Lạng Sơn nên xác định vụ án thuộc thẩm quyền của
Tòa án nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn theo quy định tại khoản 1 Điều
28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng: bị đơn anh Hoàng Văn H đã được Toà án triệu tập
hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Xét thấy, sự vắng mặt của
bị đơn không gây cản trở cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến
hành xét xử theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ
luật Tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân: chị Nông Mỹ T và anh Hoàng Văn H có đăng ký
kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn năm 2012 trên cơ sở
tự nguyện, không bị ép buộc nên cuộc hôn nhân này là hợp pháp. Theo chị Nông
Mỹ T, vợ chồng có mâu thuẫn trong thời gian dài do anh Hoàng Văn H thường
xuyên tụ tập bạn bè uống rượu, chơi cờ bạc, không tu trí làm ăn, nhiều lần mâu
thuẫn, anh Hoàng Văn H còn đánh đập chị, vợ chồng ly thân từ năm 2021 cho đến
nay; còn anh Hoàng Văn H cho rằng chị N Mỹ Trinh ngoại tình với người đàn
ông khác, anh vẫn còn tình cảm với chị Nông Mỹ T và anh cũng đồng ý ly hôn.
Mặc dù hai bên trình bày chưa phù hợp về nguyên nhân mẫu thuẫn, tuy nhiên cả
hai đều nhất trí ly hôn đã được thể hiện trong phần trình bày của hai bên và phù
hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ. Việc anh Hoàng Văn H cho rằng
vẫn còn tình cảm với chị Nông Mỹ T nhưng cả quá trình Tòa án giải quyết vụ án,
nhiều lần triệu tập anh Hoàng Văn H nhưng anh Hoàng Văn H đều vắng mặt và
không có mặt tại phiên tòa để xét xử, cho thấy anh Hoàng Văn H không muốn
đoàn tụ vợ chồng. Xét thấy, mâu thuẫn giữa chị Nông Mỹ T và anh Hoàng Văn H
5
đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài,
mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Nông Mỹ T yêu cầu ly hôn với anh
Hoàng Văn H là có căn cứ quy định tại Điều 19, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều
56 Luật Hôn nhân và Gia đình, được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về con chung: chị Nông Mỹ T và anh Hoàng Văn H có 03 con chung
là cháu Hoàng Sơn H1, sinh ngày 01-9-2012; cháu Hoàng Thị Thu B, sinh ngày
05-11-2015; cháu Nông Phú L, sinh ngày 15-11-2021. Xét thấy, chị Nông Mỹ T
yêu cầu được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 03 con
chung được anh Hoàng Văn H nhất trí, điều này cũng phù hợp với nguyện vọng
của 02 con chung cháu Hoàng Sơn H1, Hoàng Thị Thu B. Mặt khác, chị Nông
Mỹ T có đầy đủ các điều kiện về mức thu nhập, nơi ở, sinh hoạt của các con, bảo
đảm sự ổn định, hạn chế sự xáo trộn môi trường sống, giáo dục của các con sau
ly hôn nên việc giao 03 con chung cho chị N Mỹ Trinh là phù hợp. Do vậy, căn
cứ vào các Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp
nhận yêu cầu của nguyên đơn về nuôi con, cho chị N Mỹ Trinh được quyền trực
tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 03 con chung cho đến khi trưởng
thành đủ 18 tuổi. Anh Hoàng Văn H không phải cấp dưỡng nuôi con chung, do
chị Hoàng Mỹ T2 không yêu cầu và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không
ai được cản trở.
[5] Về tài sản chung: các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng
xét xử không xem xét giải quyết.
[6] Về nợ chung: không có.
[7] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội
đồng xét xử chấp nhận.
[8] Về án phí: chị Nông Mỹ T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy
định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[9] Quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm
theo quy định tại Điều 271, 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; các Điều 266,
271, 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 19, khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; các Điều 57, 58,
81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình;
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
6
1. Về quan hệ hôn nhân: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nông Mỹ T.
Xử cho chị N Mỹ Trinh được ly hôn với anh Hoàng Văn H.
2. Về con chung: chị Nông Mỹ T được quyền trực tiếp trông nom, chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 03 con chung là cháu Hoàng Sơn H1, sinh ngày 01-9-
2012; cháu Hoàng Thị Thu B, sinh ngày 05-11-2015; cháu Nông Phú L, sinh ngày
15-11-2021, kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật đến khi trưởng thành đủ 18
tuổi. Anh Hoàng Văn H không phải cấp dưỡng nuôi 03 con chung và có quyền,
nghĩa vụ thăm nom 03 con chung mà không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung: không yêu cầu Toà án giải quyết.
4. Về nợ chung: không có.
5. Về án phí: chị Nông Mỹ T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng)
tiền án phí dân sự sơ thẩm, để nộp ngân sách Nhà nước.
6. Quyền kháng cáo: nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong
thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo
quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sựngười được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận
thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 và 46 Luật thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án
dân sự.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn;
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn;
- Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng;
- Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chi
Lăng;
- UBND xã Hồ Sơn, huyện Hữu Lũng;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phan Thị Thanh Huyền
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 27/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 11/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 31/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 29/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 29/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 28/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm