Bản án số 06/2025/DS-ST ngày 22/08/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 4 - Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 06/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 06/2025/DS-ST ngày 22/08/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 4 - Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 4 - Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn
Số hiệu: 06/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 22/08/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Hoàng Xuân H và Hoàng Trường M tranh chấp quyền sở hữu tiền bồi thường đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 4 - LẠNG SƠN
Bản án số: 06/2025/DS-ST
Ngày:
22-8-2025
V/v tranh chấp về quyền sở hữu
tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 4 - LẠNG SƠN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hoàng Hải Đoàn.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Hoàng Văn Thưng.
Bà Vũ Th Cúc.
- Thư ký phiên toà: Bà Vy Khánh Ly - Thư Tòa án nhân dân khu vực 4
- Lạng Sơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 4 - Lạng Sơn tham gia phiên
tòa: Bà Nguyễn Thị Vân - Kiểm sát viên.
Ngày 22 tháng 8 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân khu vực 4 - Lạng
Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 93/2024/TLST-DS ngày 19 tháng
12 năm 2024, về việc tranh chấp về quyền sở hữu tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định
(vụ án tiếp nhận từ Toà án nhân dân huyện Hữu Lũng), theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử số: 05/2025/QĐXXST-DS ngày 25 tháng 7 năm 2025 Quyết
định hoãn phiên tòa số: 12/2025/QĐST-DS ngày 13 ngày 8 ngày 2025, giữa các
đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Hoàng Xuân H, sinh năm 1964. Địa chỉ: Thôn T, xã H,
tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
- Bị đơn: Ông Hoàng Trường M, sinh năm 1975. Địa chỉ: Thôn T, H,
tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Vi Thị N, sinh năm 1963. Có mặt.
2. Anh Hoàng Thanh L, sinh năm 1987. Có mặt.
3. Chị Lưu Thị H1, sinh năm 1987. Có mặt.
4. Bà Lục Thị H2, sinh năm 1974. Có mặt.
Cùng địa chỉ: Thôn T, xã H, tỉnh Lạng Sơn.
5. Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh Lạng Sơn.
2
Người đại diện hợp pháp của Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh L: Ông
Lâm Văn N1 - Viên chức Chi nhánh Phát triển quỹ đất khu vực H, người đại
diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 19/8/2025). Vắng mặt.
6. Uỷ ban nhân dân (UBND) huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Người kế thừa quyền
và nghĩa vụ tố tụng của UBND huyện H là Chủ tịch UBND xã H, tỉnh Lạng Sơn.
Người đại diện hợp pháp của Chủ tịch UBND H: Thị Kim O -
Chuyên viên Phòng Kinh tế H, người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy
quyền ngày 26/7/2025). Vắng mặt.
- Người làm chứng:
1. Bà Hoàng Thị Q, sinh năm 1952. Vắng mặt.
2. Bà Nông Thị S. Vắng mặt.
3. Bà Triệu Thị T, sinh năm 1958. Có mặt.
4. Bà Hoàng Thị T1. Vắng mặt.
5. Bà Hoàng Thị D, sinh năm 1965. Có mặt.
6. Ông Lý Văn P, sinh năm 1957. Vắng mặt.
7. Bà Hoàng Thị V, sinh năm 1958. Có mặt.
8. Bà Hoàng Thị T2, sinh năm 1970. Có mặt.
Cùng địa chỉ: Thôn T, xã H, tỉnh Lạng Sơn.
9. Bà Hoàng Thị T3, sinh năm 1966. Địa chỉ: Thôn C, xã T, tỉnh Lạng Sơn.
Có mặt.
10. Hoàng Thị V1, sinh năm 1972. Địa chỉ: Thôn V, T, tỉnh Lạng
Sơn. Có mặt.
11. Lương Thị N2, sinh năm 1958. Địa chỉ: Thôn P, H, tỉnh Lạng
Sơn. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 15 tháng 11 năm 2024, trong quá trình tố tụng và
tại phiên tòa nguyên đơn ông Hoàng Xuân H trình bày:
Nguyên đơn ông Hoàng Xuân H bị đơn ông Hoàng Trường M quan
hệ chú cháu ruột. Hai bên tranh chấp thửa đất số 105a, tờ bản đồ số 67, diện
tích 714m
2
(sau đây gọi thửa đất số 105a) địa chỉ thôn T, H (nay H),
tỉnh Lạng Sơn.
Nguồn gốc thửa đất số 105a của bố mẹ nguyên đơn cụ Hoàng Văn S1
(chết năm 2004), cụ Lương Thị N3 (chết năm 2013). Khi còn sống bố mẹ đã chia
đất cho các anh chị em trong gia đình và đất được chia cho ai thì đã đi kê khai và
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) không ai thắc mắc
gì.
Về quá trình quản , sử dụng đất tranh chấp, từ năm 1980 đến nay nguyên
3
đơn là người trực tiếp canh tác thửa đất số 105a, cụ thể hàng năm cấy một vụ lúa,
đến tháng chạp thì trồng các loại rau không tranh chấp với ai, khi ông Hoàng
Mạnh T4 bố bị đơn n sống cũng không tranh chấp. Đến năm 2023 khi đo đạc
kiểm đếm đền bù vì toàn bộ thửa đất số 105a vào dự án Khu công nghiệp V, đến
lúc đó bị đơn mới cho rằng thửa đất số 105a bị đơn đã được cấp GCNQSDĐ nên
hai bên xảy ra tranh chấp.
Về việc cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số 105a. Sau khi được bố chia đất
trong đó thửa đất đang tranh chấp, tại “BẢNG LIỆT ĐẤT” do chính tay
cụ Hoàng Văn S1 viết đã liệt các thửa đất (gồm 25 thửa, trong đó 21 thửa
đất lúa), nguyên đơn đã đi đăng được cấp GCNQSDĐ lần đầu vào năm
1995, sau đó đến năm 1999 thì được cấp đổi GCNQSDĐ số N 830562 do UBND
huyện H cấp ngày 10/5/1999, cho ông Hoàng Xuân H, với tổng số 25 thửa đất,
tổng diện tích 16.038m
2
.
Từ trước đến nay nguyên đơn là người sử dụng và đã được cấp GCNQSDĐ
đối với thửa đất số 105a như trình bày ở trên, nhưng không biết tại sao ông Hoàng
Trường M vẫn được cấp GCNQSDĐ thửa đất số 105a vào ngày 10/5/1999. Việc
ông Hoàng Trường M đi kê khai cấp GCNQSDĐ lúc nào nguyên đơn không biết.
Hiện nay toàn bộ thửa đất số 105a nằm trong dự án đầu xây dựng kinh
doanh kết cấu hạ tầng Khu công nghiệp V đã có quyết định thu hồi đất, quyết
định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, với tổng số tiền
180.227.700 đồng, trong đó: Số tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định 52.163.700
đồng của diện tích 244.9 m
2
, anh Hoàng Thanh L (con nguyên đơn) người đã
nhận số tiền này; số tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của phần diện tích còn lại
469,1 m
2
là 128.064.000 đồng. Đối với các quyết định liên quan đến việc thu hồi
đất phương án bồi thường liên quan thửa đất số 105a của cơ quan Nhà nước
thẩm quyền, nguyên đơn nhất trí không khiếu nại gì.
Do vậy, nay nguyên đơn xác định lại yêu cầu khởi kiện được quyền sở
hữu toàn bộ số tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định đối với thửa đất số 105a, với
tổng số tiền 180.227.700 đồng.
Về số tiền 52.163.700 đồng bồi thường diện tích 244,9m
2
thuộc thửa đất
105a con trai nguyên đơn đã nhận, nguyên đơn không yêu cầu trả lại để anh Hoàng
Thanh L được hưởng. Đối với số tiền bồi thường còn lại 128.064.000 đồng phần
diện tích 469,1 m
2
thuộc thửa đất 105a, hiện đang được quản lý tại tài khoản tiền
gửi của Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh nguyên đơn yêu cầu được chi trả.
Về án phí, nguyên đơn là người cao tuổi nên đề nghị được miễn án phí.
Trong quá trình tố tụng bị đơn ông Hoàng Trường M trình bày:
Về nguồn gốc đất tranh chấp là của ông nội bị đơn cụ Hoàng Văn S1 (chết
năm 2004) chia cho bố bị đơn (ông Hoàng Mạnh T4), sau khi bị đơn lấy vợ ra
riêng năm 1996 thì được bố chia cho nhiều thửa đất trong đó có thửa đất số 105a,
đến ngày 10/5/1999 được UBND huyện cấp GCNQSDĐ.
Về quá trình quản lý, sử dụng thửa đất số 105a: Từ khi còn nhỏ bị đơn được
4
cùng bố mẹ cấy a, đến năm 1996 thì được bố chia cho thửa đất số 105a và từ đó
hàng năm bị đơn cày cấy làm ruộng. Đến năm 2002 khi bị đơn đang cày ruộng để
cấy lúa thì ông Hoàng Xuân H đến ngăn cấm, chửi bới không cho làm, do vậy từ
năm 2002 cho đến nay bị đơn không sử dụng được thửa đất số 105a.
Hiện nay toàn bộ thửa đất số 105a nằm trong dự án Khu công nghiệp V.
Đối với các quyết định liên quan đến việc thu hồi đất phương án bồi thường
thửa đất số 105a của quan Nhà nước thẩm quyền, bị đơn nhất trí không
khiếu nại gì. Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
yêu cầu phản tố được quyền sở hữu toàn bộ số tiền 180.227.700 đồng đền bù của
thửa đất số 105a.
Tuy nhiên, do nguồn gốc thửa đất số 105a là của ông cha để lại, bị đơn
nguyên đơn có quan hệ chú cháu ruột với nhau, để giữ gìn đoàn kết, tình cảm chú
cháu, do vậy tại phiên toà thế nào bị đơn cũng tự nguyện mỗi bên được hưởng
½ số tiền đền bù, tương đương bị đơn nguyên đơn mỗi bên được hưởng
90.113.850 đồng (trong số tiền được hưởng của nguyên đơn bao gồm cả số tiền
52.163.700 đồng anh Hoàng Thanh L đã nhận). Về chi phí tố tụng bị đơn cũng
tự nguyện chịu ½ chi phí.
Anh Hoàng Thanh L (người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về n
nguyên đơn) trình bày:
Về nguồn gốc quá trình quản lý, sử dụng đất tranh chấp đúng như bố
anh nguyên đơn trình bày. Từ khi còn nhỏ anh được cùng bố mcanh tác thửa đất
số 105a, đến khi dự án khu công nghiệp V thực hiện đo đạc, kiểm đếm tài sản trên
đất để bồi thường thì bị đơn cho rằng thửa đất 105a đã được cấp vào GCNQSDĐ
của bị đơn nên hai bên xảy ra tranh chấp.
Về phần diện tích 244.9 m
2
thuộc một phần thửa đất 105a, khi đo đạc kiểm
đếm để bồi thường thì nằm trong thửa đất số 194, mảnh trích đo TĐ-26, diện tích
4.413m
2
bị thu hồi đất để thực hiện dự án theo Quyết định số: 1231/QĐ-UBND
ngày 25/3/2024 và được phê duyệt Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo
Quyết định số: 1251/QĐ-UBND ngày 25/03/2024, của UBND huyện H, mang n
hộ ông Hoàng Thanh L. Ngày 28/3/2024, anh Hoàng Thanh L là người nhận toàn
bộ số tiền đền thu hồi đất 2.272.460.000 đồng theo Quyết định 1251/QĐ-
UBND, trong đó có số tiền đềncủa phần diện tích 244.9 m
2
thuộc thửa đất số
105a là 52.163.700 đồng.
Anh Hoàng Thanh Liên hoàn T5 nhất trí với các quyết định thu hồi đất,
quyết định về phương án bồi thường, h trợ, tái định dự án Khu công nghiệp
V. Đối với yêu cầu khởi kiện yêu cầu phản tố, đồng ý chia theo tỷ lệ 8 cho
nguyên đơn 2 cho bị đơn.
Người đại diện của Trung tâm Phát triển quđất tỉnh Lạng Sơn người
đại diện của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, trình bày:
Toàn bộ thửa đất số 105a, nằm trong dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh
kết cấu hạ tầng Khu công nghiệp V. Theo Quyết định số 1569/QĐ-UBND ngày
06/8/2021 của UBND tỉnh L về việc phê duyệt Kế hoạch sử dụng đất năm đầu
5
(năm 2021) của quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030 huyện H, tỉnh Lạng Sơn;
Quyết định số 2100/QĐ-UBND ngày 27/10/2022 của UBND tỉnh L, về việc phê
duyệt Kế hoạch sử dụng đất năm 2023 của huyện H, tỉnh Lạng Sơn; Quyết định
số 2275/QĐ-UBND ngày 31/12/2023 của UBND tỉnh L, về việc phê duyệt Kế
hoạch sử dụng đất năm 2024 của huyện H, tỉnh Lạng Sơn.
Thửa đất s105a được thể hiện trong mảnh trích đo số 26-2023 do Trung
tâm Tài nguyên và Môi trường tỉnh L đo đạc ngày 20/9/2023, được UBND H
xác nhận đo vẽ phù hợp với hiện trạng ngày 22/9/2023 và được Sở Tài nguyên
Môi trường tỉnh duyệt ngày 26/9/2023, được thể hiện trên 02 thửa, gồm thửa đất
số 194 và thửa đất số 201 cùng thuộc mảnh trích đo số TĐ-26 (Trích đo đã được
niêm yết tại UBND xã HNhà văn hóa thôn T6), cụ thể:
- Đối với thửa đất số 194: Trong quá trình trích đo địa chính để làm
bồi thường, hỗ trợ, tái định dự án. Phần diện tích 244.9m2 (thuộc một phần
thửa đất số 105a) nằm trên thửa đất số 194, mảnh trích đo -26, diện tích được
phê duyệt Phương án tại Quyết định số 1251/QĐ-UBND ngày 25/03/2024 của
UBND huyện H, thửa đất số 194, mảnh trích đo 26, tổng diện tích 4413,0m
2
mang tên Hoàng Thanh L và Quyết định số 1231/QĐ-UBND ngày 25/3/2024 của
UBND huyện H về việc thu hồi đất để thực hiện Khu công nghiệp V. Số tiền bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư của phần diện tích 244.9m
2
52.163.700 đồng, trong
đó: Bồi thường đất: 11.020.500 đồng; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề tìm kiếm
việc làm: 30.857.400 đồng; hỗ trợ khác để ổn định đời sống và sản xuất:
10.285.800 đồng. Toàn bộ số tiền 52.163.700 đồng đã được giải ngân cho anh
Hoàng Thanh L.
- Đối với thửa đất số 201: Thửa đất số 201, tờ bản đồ trích đo TĐ 26, diện
tích 469,1m
2
(thuộc một phần thửa đất số 105a). Thửa đất trên đã được phê duyệt
Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định tại Quyết định số 1251/QĐ-UBND ngày
25/03/2024 của UBND huyện H (Đ, giai đoạn 1) mang tên hộ ông Hoàng Trường
M (đang tranh chấp với hộ ông Hoàng Xuân H) Quyết định thu hồi đất tại
Quyết định số 1236/QĐ-UBND ngày 25/3/2024 của UBND huyện H. Số tiền bồi
thường, hỗ trợ, tái định của phần diện tích 469,1m
2
là 128.064.000 đồng, trong
đó: Bồi thường đất: 26.738.700 đồng; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề tìm kiếm
việc làm: 75.994.200 đồng; hỗ trợ khác để ổn định đời sống và sản xuất:
25.331.400 đồng.
Do liên quan đến tranh chấp nên số tiền 128.064.000 đồng hiện đang được
quản tại tài khoản của Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh. Sau khi Toà án giải
quyết tranh chấp thì Trung tâm Phát triển quỹ đất sẽ chi trả theo quy định.
Vi Thị N, chị Lưu Thị H1 (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng
về bên nguyên đơn) thống nhất với ý kiến trình bày của nguyên đơn.
Lục Thị H2 (người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về bên bị đơn),
thống nhất với ý kiến trình bày của bị đơn.
Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật: Từ khi
thụ cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội thẩm
6
nhân dân, Thư phiên tòa đã tuân theo đúng các trình tự thủ tục tố tụng. c
đương sự thực hiện đầy đủ quyền nghĩa vụ của họ theo Điều 70, 73 của Bộ luật
Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Theo biên bản xác minh nội dung:
“Tại vị trí thửa đất đang tranh chấp số 105a qua đối chiếu là thửa 336 tờ bản đồ
số 1 bản đồ giải thửa năm 1988”, tuy nhiên trong hồ sơ vụ án chưa có tài liệu xác
minh làm rõ thửa đất 336, tờ bản đồ số 1 bản đồ giải thửa năm 1988 đã được quy
chủ giao cho một trong hai bên đương sự chưa, hoặc giao cho ai khác, trường hợp
giao cho người khác thì cần đưa người này vào tham gia tố tụng. Do đó, đề nghị
Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 259 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tạm
ngừng phiên toà để xác minh thu thập tài liệu nêu trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt đại diện của Trung tâm Phát
triển quỹ đất tỉnh Lạng Sơn và đại diện Chủ tịch UBND xã H ng một số người
làm chứng. Xét thấy, những người vắng mặt nhưng đã có đơn xin giải quyết vắng
mặt hoặc được triệu tập hợp lệ lần thứ hai các đương sự đề nghị tiếp tục xét
xử, do vậy căn cứ Điều 227, 228, 229 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét
xử tiếp tục tiến hành xét xử theo quy định.
[2] Về quan hệ tranh chấp: Theo yêu cầu khởi kiện ban đầu, nguyên đơn
yêu cầu được quyền quản , sử dụng diện tích đất tranh chấp thửa đất số 105a, tờ
bản đồ số 67, diện tích 714m
2
buộc bị đơn chấm dứt hành vi cản trở trái pháp
luật nên Toà án đã thụ lý và xác định quan hệ là tranh chấp quyền sử dụng đất và
yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật. Nhưng do toàn bộ thửa đất số
105a nằm trong dự án Khu công nghiệp V đã quyết định thu hồi đất, quyết
định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, với tổng số tiền
180.227.700 đồng. Do vậy, quá trình giải quyết nguyên đơn xác định yêu cầu khởi
kiện, bị đơn xác định yêu cầu phản tố được quyền sử hữu toàn bộ số tiền bồi
thường, hỗ trợ, tái định 180.227.700 đồng. Do vậy, Hội đồng xét xử xác định
quan hệ pháp luật là: “Tranh chấp về quyền sở hữu tiền bồi thường, hỗ trợ, i
định cư”, theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Các bên tranh chấp quyền sở hữu tiền bồi thường thửa đất số 105a, do
vậy phải xem xét ai người quyền quản lý, sử dụng hợp pháp thửa đất số 105a
để làm căn cứ được nhận số tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
[4] Xét thấy, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ xác định được diện
tích đất các bên yêu cầu được quyền quản lý hợp pháp là thửa đất số 105a, tờ bản
đồ số 67, diện tích 714m
2
toàn bộ thửa đất số 105a nằm trong dự án Khu công
nghiệp V, thửa đất số 105a đã bị thu hồi theo Quyết định số: 1231/QĐ-UBND và
Quyết định số: 1236/QĐ-UBND cùng ngày 25/3/2024 của UBND huyện H,
được phê duyệt Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định theo Quyết định số:
1251/QĐ-UBND ngày 25/03/2024, của UBND huyện H, với tổng số tiền đền
180.227.700 đồng.
[5] Về nguồn gốc thửa đất số 105a, theo lời khai của các bên đương sự thì
đất tranh chấp nguồn gốc của ông cha, do đó đây tình tiết, sự kiện không
7
phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[6] Về quá trình quản , sử dụng thửa đất số 105a: Theo lời khai của
nguyên đơn, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan đứng về phía nguyên đơn
người làm chứng do nguyên đơn yêu cầu thì thửa đất số 105a do gia đình nguyên
đơn canh tác sử dụng từ những năm 1980 đến nay. Còn theo lời khai của bị đơn,
người quyền lợi nghĩa vụ liên quan đứng về phía bị đơn người làm chứng
do bị đơn yêu cầu thì thửa đất số 105a, từ nhỏ bị đơn được cùng bố cấy lúa, từ
năm 1990 - 1995 bố bị đơn cho bà Lương Thị N2 mượn để trồng lúa, từ năm 1996
- 2002 bị đơn canh tác sử dụng liên tục, năm 2002 khi đang cày ruộng thì nguyên
đơn ngăn cấm, chửi bới nên từ đó cho đến nay nguyên đơn là người sử dụng thửa
đất số 105a.
[7] Ngoài lời khai hai bên đương sự đều không cung cấp được tài liệu,
chứng cứ để chứng minh, tuy nhiên lời khai của phía bị đơn phù hợp với lời khai
của người làm chứng Hoàng Thị D, ông Văn P, Hoàng Thị V hàng
xóm không quan hệ thân thích với hai bên đương sự ruộng gần với thửa
đất số 105a, phù hợp với Biên bản xác minh ngày 17/02/2025 (Bút lục số 72, 73),
phù hợp với thông tin của ông Lành Mạnh H3 nguyên Bí thư Đoàn thanh niên xã
H được tham gia hoà giải tranh chấp đất đai năm 2002 (Bút lục số 82, 83), nên
sở xác định quá trình quản lý, sử dụng thửa đất số 105a, như sau: Trong
khoảng những năm 1980 bố bị đơn người sử dụng thửa đất số 105a, từ năm
1990 - 1995 bố bị đơn cho Lương Thị N2 mượn để trồng lúa, từ năm 1996 -
2002 bị đơn người trực tiếp sử dụng thửa đất số 105a, năm 2002 khi bị đơn
đang cày ruộng thì nguyên đơn ngăn cấm, hai bên xảy ra tranh chấp và từ đó cho
đến nay nguyên đơn là người sử dụng thửa đất số 105a.
[8] Xét về việc cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số 105a: Như nhận định
tại đoạn [7] trên bị đơn người trực tiếp quản lý, sử dụng thửa đất 105a liên
tục từ năm 1996 - 2002 (trước đó bố bị đơn quản lý, sử dụng), như vậy, tại thời
điểm cấp GCNQSDĐ ngày 10/5/1999, bị đơn người trực tiếp sử dụng đất, do
đó việc cấp GCNQSDĐ cho bị đơn là đúng đối tượng. Hơn nữa, tại thời điểm cấp
GCNQSDĐ đối với thửa đất số 105a cho bị đơn, thì cùng tại thời điểm này nguyên
đơn đi kê khai làm thủ tục và được cấp GCNQSDĐ với tổng số 25 thửa đất, tổng
diện tích 16.038m
2
trước đó năm 1995 nguyên đơn làm đơn khai cấp
GCNQSDĐ nhưng cũng không thửa đất số 105a. Do vậy, việc nguyên đơn
trình bày được bố chia thửa đất số 105a tại “BẢNG LIỆT KÊ ĐẤT” nguyên
đơn đi kê khai được cấp GCNQSDĐ lần đầu vào năm 1995, sau đó đến năm 1999
thì được cấp đổi, không căn cứ. Như vậy, việc cấp GCNQSDĐ ngày
10/5/1999 cho bị đơn đúng đối tượng, đúng trình tự, thủ tục đúng thẩm quyền
phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 2, các Điều 24, 36, 73 Luật Đất đai năm 1993
và các quy định tại Thông tư số: 346/1998/TT-TCĐC ngày 16/3/1998, của T7.
[9] Như vậy, việc cấp GCNQSDĐ ngày 10/5/1999 cho bị đơn là đúng theo
pháp luật đất đai tại thời điểm cấp GCNQSDĐ, nên bị đơn người quyền quản
lý, sử dụng hợp pháp thửa đất số 105a. Việc nguyên đơn sử dụng thửa đất số 105a
từ năm 2002 đến nay không căn cứ pháp luật và việc sử dụng đất của nguyên
8
đơn cũng chưa đủ 30 năm liên tục, để xem xét xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu
quy định tại Điều 236 Bộ luật Dân sự 2015.
[10] Tại thời điểm thu hồi thửa đất số 105a, tờ bản đsố 67, diện tích 714m
2
để thực hiện dự án Khu công nghiệp V, thì thực hiện theo Luật Đất đai năm 2013.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Đất đai năm 2013, thì điều kiện để được
bồi thường về đất khi thu hồi đất có GCNQSDĐ. Như nhận định trên thửa đất
số 105a nguyên đơn không có GCNQSDĐ, tại thời điểm thu hồi đất nguyên đơn
người sử dụng thửa đất số 105a nhưng việc sử dụng đất không căn cứ
pháp luật nên nguyên đơn không đủ điều kiện để được bồi thường.
[11] Từ những phân tích, lập luận trên, xét thấy nguyên đơn khởi kiện
được sở hữu số tiền 180.227.700 đồng đền thửa đất số 105a khi thu hồi để thực
hiện dự án Khu công nghiệp V, không sở nên Hội đồng xét xử bác yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[12] Về yêu cầu phản tố của bị đơn: Xét thấy như phân tích, lập luận tại c
đoạn [7], [8], [9], [10] ở trên, việc cấp GCNQSDĐ ngày 10/5/1999 cho bị đơn là
đúng pháp luật nên bị đơn là người có quyền quản lý, sử dụng hợp pháp thửa đất
số 105a, khi thu hồi thửa đất số 105a để thực hiện dự án Khu công nghiệp V, thì
bị đơn là người đủ điều kiện để được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo khoản 1
Điều 75 Luật Đất đai năm 2013, do vậy yêu cầu phản tố của bị đơn được sở hữu
180.227.700 đồng, tiền đền thửa đất số 105a căn cứ nên được Hội đồng
xét xử chấp nhận.
[13] Tại phiên tòa bị đơn trình bày thửa đất số 105a có nguồn gốc của ông
cha để lại, bị đơn nguyên đơn quan hệ chú cháu, để giữ gìn đoàn kết, tình
cảm chú cháu, dù thế nào bị đơn cũng tự nguyện mỗi bên hưởng ½ số tiền đền bù,
tương đương bị đơn nguyên đơn mỗi bên được hưởng 90.113.850 đồng. Xét
thấy, mặc nguyên đơn không đồng ý nhưng đây là sự tự nguyện của bị đơn, sự
tự nguyện này không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội, do
đó để đảm bảo quyền lợi của nguyên đơnanh Hoàng Thanh L Hội đồng xét xử
chấp nhận, trường hợp nguyên đơn và anh Hoàng Thanh L không đồng ý nhận số
tiền này thì vẫn quyền yêu cầu hoặc không yêu cầu thi hành án, theo các quy
định của Luật Thi hành án dân sự.
[14] Đối với việc anh Hoàng Thanh L là người nhận 52.163.700 đồng, tiền
đền diện tích 244.9 m
2
thuộc một phần thửa đất số 105a, do yêu cầu phản tố
được chấp nhận nên anh Hoàng Thanh L phải hoàn trả lại cho bị đơn. Tuy nhiên
như nhận định tại đoạn [13] trên, nguyên đơn được hưởng ½ số tiền đền
tương đương 90.113.850 đồng, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn cho anh
Hoàng Thanh L được hưởng số tiền này không yêu cầu trả lại. Do vậy, sau khi
trừ đi số tiền 52.163.700 đồng anh Hoàng Thanh L đã nhận, nguyên đơn còn được
hưởng số tiền 37.950.150 đồng.
[15] Về nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng: Nguyên đơn người nộp tiền tạm
ứng chi phí cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ với tổng số tiền 12.011.000 đồng.
Xét thấy, yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nên căn cứ Điều 157 của Bộ
luật Tố tụng dân sự, nguyên đơn phải chịu toàn bộ chi phí tố tụng, tuy nhiên bị
9
đơn tự nguyện chịu ½ chi phí nên Hội đồng xét xử chấp nhận và bị đơn phải hoàn
lại cho nguyên đơn theo Điều 158 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[16] Về nghĩa vụ chịu án phí: Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 2 Điều
27 Nghquyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu
án phí dân sự thẩm không giá ngạch. Xét thấy, về yêu cầu phản tố do phải
xác định quyền sở hữu số tiền bồi thường thửa đất số 105a nên nguyên đơn và bị
đơn mỗi bên phải chịu án phí dân sự có giá ngạch tương đương số tiền 4.505.000
đồng, theo điểm b khoản 2 Điều 27 Nghquyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên, nguyên đơn là người cao tuổi và có yêu cầu
được miễn án phí, căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, nguyên đơn được miễn
án phí dân sự sơ thẩm.
[17] Về ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đề nghị tạm ngừng
phiên toà theo điểm c khoản 1 Điều 259 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xác minh,
thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ. Xét thấy, tại thời điểm cấp GCNQSDĐ ngày
10/5/1999, bị đơn người trực tiếp sử dụng thửa đất số 105a, do đó việc cấp
GCNQSDĐ cho bị đơn là đúng đối tượng; mặt khác quá trình thu hồi đất để thực
hiện dự án Khu công nghiệp V, là công khai mọi người dân đều biết, tại biểu chi
tiết phương án bồi thường kèm theo Quyết định số: 1251/QĐ-UBND ngày
25/03/2024 của UBND huyện H, đã xác định việc tranh chấp chỉ có giữa hai bên
đương sự; ngoài ra Toà án đã tiến hành xác minh nhiều lần nhưng thửa đất 336,
tờ bản đồ số 1 bản đồ giải thửa năm 1988 trong hồ sơ điạ chính không thể hiện ai
là chủ sử dụng nên nội dung này không đưa vào biên bản xác minh. Do vậy, việc
thu thập tài liệu, chứng cứ đã đầy đủ, yêu cầu của Kiểm sát viên không cần
thiết, làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xkhông chấp nhận
đề nghị tạm ngừng phiên toà. Kiểm sát viên tại phiên tòa không phát biểu về
đường lối giải quyết vụ án, chưa thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn quy
định tại Điều 58 và 262 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[18] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271,
Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 2; Điều 24; Điều 36; Điều 73 Luật Đất đai năm
1993 Điều 75 Luật Đất đai năm 2013. Căn cứ vào Điều 8; Điều 158; Điều 160;
Điều 163; Điều 166; Điều 221 Bộ luật Dân sự m 2015. Căn cứ vào khoản 2
Điều 26; Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 157; Điều 158; Điều 227;
Điều 228; Điều 229; Điều 244; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn
cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm b khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội.
10
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Ông Hoàng Xuân
H không được quyền sở hữu số tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định của thửa đất
số 105a, tờ bản đồ số 67, diện tích 714m
2
, với tổng số tiền 180.227.700 đồng (một
trăm tám mươi triệu hai trăm hai mươi bảy nghìn bảy trăm đồng).
2. Về yêu cầu phản tố của bị đơn, chấp nhận sự tự nguyện của bị đơn:
2.1. Ông Hoàng Trường M được quyền sở hữu ½ số tiền bồi thường, hỗ trợ,
tái định của thửa đất số 105a, với số tiền 90.113.850 đồng (chín mươi triệu một
trăm mười ba nghìn tám trăm năm mươi đồng).
2.2. Ông Hoàng Xuân H được quyền sở hữu ½ số tiền bồi thường, hỗ trợ,
tái định của thửa đất số 105a, với số tiền 90.113.850 đồng (chín mươi triệu một
trăm mười ba nghìn tám trăm năm mươi đồng). Xác nhận anh Hoàng Thanh L đã
nhận số tiền 52.163.700 đồng, sau khi trừ đi số tiền anh Hoàng Thanh L đã nhận,
ông Hoàng Xuân H còn được sở hữu số tiền 37.950.150 đồng (ba mươi bảy triệu
chín trăm năm mươi nghìn một trăm năm mươi đồng).
Toàn bộ số tiền 128.064.000 đồng (một trăm hai mươi tám triệu không trăm
sáu mươi tư nghìn đồng), đang được quản lý tại tài khoản tiền gửi của Trung tâm
Phát triển quỹ đất tỉnh L.
3. Về chi phí tố tụng:
3.1. Ông Hoàng Xuân H phải chịu số tiền chi phí xem xét, thẩm định tại
chỗ 6.005.500 đồng (sáu triệu không trăm linh năm nghìn năm trăm đồng). Xác
nhận ông Hoàng Xuân H đã nộp đủ số tiền 6.005.500 đồng.
3.2. Ông Hoàng Trường M tự nguyện chịu 6.005.500 đồng (sáu triệu không
trăm linh năm nghìn năm trăm đồng) chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ. Ông
Hoàng Trường M phải hoàn trả số tiền 6.005.500 đồng (sáu triệu không trăm linh
năm nghìn năm trăm đồng) cho ông Hoàng Xuân H.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ
luật Dân sự.
4. Về án phí:
4.1. Nguyên đơn ông Hoàng Xuân H được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
4.2. Ông Hoàng Trường M phải chịu 4.505.000 đồng án phí dân sự thẩm,
để nộp ngân sách Nhà nước. Số tiền án phí trên được trừ vào số tiền tạm ứng án
phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp,
tại tài khoản
3949.0.1054441.00000 của Thi hành án dân sự tỉnh Lạng Sơn tại Kho bạc nhà
nước Khu vực V2 - Phòng nghiệp vụ 2. Sau khi khấu trừ ông Hoàng Trường M
còn phải nộp tiếp 4.205.000 đồng (bốn triệu hai trăm linh năm nghìn đồng).
5. Quyền kháng cáo: Đương sự mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo
bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên
tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản
11
án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi nh theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
n sự người phải thi hành án dân sự, nời được thi hành án dân sự có quyền tho
thuận thi hành án quyền yêu cầu thi nh án, tự nguyện thi hành án hoặc bị ỡng
chế thi hành án quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án n sự. Thời hiệu thi nh
án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án n sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn; THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
- Viện kiểm sát nhân dân khu vực 4 - Lạng Sơn;
- Thi hành án dân sự tỉnh Lạng Sơn;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Hoàng Hải Đoàn
Tải về
Bản án số 06/2025/DS-ST Bản án số 06/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 06/2025/DS-ST Bản án số 06/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất