Bản án số 04/2024/DS-ST ngày 23/09/2024 của TAND huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định về tranh chấp hợp đồng tín dụng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 04/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 04/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 04/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 04/2024/DS-ST ngày 23/09/2024 của TAND huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định về tranh chấp hợp đồng tín dụng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng tín dụng |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Vụ Bản (TAND tỉnh Nam Định) |
Số hiệu: | 04/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 23/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | VPBank - anh T chị H tranh chấp hợp đồng tín dụng |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN V
TỈNH NAM ĐỊNH
Bản án số: 04/2024/TCDS-ST
Ngày: 23-9-2024.
“V/v tranh chấp hợp đồng tín dụng”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH NAM ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Vũ Văn Quân.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Trần Đình Mạnh.
2. Bà Trần Thị Định.
- Thư ký phiên tòa: Bà Bùi Kiều Trang - Thư ký Tòa án nhân dân huyện
V, tỉnh Nam Định.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định tham gia
phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thu Hiên - Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh
Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 08A/2023/TLST-
TCDS ngày 03 tháng 4 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2024/QĐXXST-TCDS ngày 21 tháng 8
năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 04/2024/QĐST-TCDS ngày 06
tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng
(Viết tắt là VPBank).
Địa chỉ trụ sở chính: Số 89, Láng Hạ, phường Láng Hạ, quận Đống Đa,
thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Chí Dũng; chức vụ: Chủ tịch
Hội đồng quản trị.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Ngô Chí Dũng là: Ông Phạm
Tuấn Anh; chức vụ: Phó giám đốc Trung tâm pháp lý VPBank (Theo văn bản
ủy quyền số 24/2020/UQ-HĐQT ngày 07-7-2010).
Người đại diện theo ủy quyền của ông Phạm Tuấn Anh là: Ông Lê
Thành Luân; chức vụ: Trưởng bộ phận xử lý nợ VPBank, ông Phạm Xuân
Quang; chức vụ: Chuyên viên xử lý nợ VPBank, ông Bùi Minh Thiện; chức
vụ: Chuyên viên xử lý nợ VPBank và ông Trương Ngọc Anh; chức vụ:
Chuyên viên xử lý nợ VPBank (Theo các văn bản ủy quyền số 153/2022/UQ-
VPB ngày 31-12-2022 và số 665/2023/UQ-VPB ngày 23-6-2023).
2. Bị đơn:
- Anh Trần Thế T, sinh năm 1990.
2
- Chị Trần Thị H, sinh năm 1992.
Đều cùng đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại: Tổ dân phố VC, thị
trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Anh Trần Thế Tr, sinh năm 1976.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại: Tổ dân phố VC, thị trấn G,
huyện V, tỉnh Nam Định.
- Chị Trần Thị M, sinh năm 1978.
Quê quán và nơi cư trú cuối cùng: Tổ dân phố VC, thị trấn G, huyện V,
tỉnh Nam Định.
Nơi cư trú hiện nay do người thân thích cung cấp: Phường TD, thành
phố B, tỉnh Đồng Nai.
(Tại phiên tòa có mặt ông Trương Ngọc Anh; vắng mặt anh Trần Thế T,
chị Trần Thị H, anh Trần Thế Tr và chị Trần Thị M).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện ngày 28-3-2023, bản tự khai trong các ngày 25-4-
2023, 04-7-2023 và 21-8-2024 cũng như lời khai trong quá trình tham gia tố
tụng và tại phiên tòa, ông Phạm Tuấn Anh là người đại diện theo ủy quyền của
người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn và ông Bùi Minh Thiện và ông
Trương Ngọc Anh là người đại diện theo ủy quyền của ông Tuấn Anh trình
bày như sau:
Ngày 17-6-2019, tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Việt
Nam Thịnh Vượng (Viết tắt là VPBank) - Chi nhánh Nam Định, VPBank và
vợ chồng anh Trần Thế T, chị Trần Thị H đã cùng nhau ký kết 01 Hợp đồng
cho vay (Hợp đồng tín dụng) số LN1906131458962 ngày 17-6-2019 và 01 Phụ
lục hợp đồng số 01/PlHĐ Sửa đổi, bổ sung Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng
đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác số 714532 ký ngày 15-6-
2018, với những nội dung và điều khoản cơ bản như sau: Số tiền cho vay là:
682.000.000đ (Sáu trăm tám mươi hai triệu đồng); mục đích vay: Bổ sung vốn
kinh doanh/mở rộng kinh doanh sản xuất mua bán đồ gỗ; thời hạn vay là: 12
tháng; lãi suất vay + phí và kỳ hạn điều chỉnh: Lãi suất cho vay trong hạn tại
thời điểm giải ngân là 13,5%/năm và được cố định 03 tháng kể từ ngày giải
ngân, hết thời hạn 03 tháng lãi suất sẽ được điều chỉnh định kỳ 01 tháng/lần
với mức điều chỉnh được xác định bằng mức lãi suất cơ sở VNĐ áp dụng đối
với khoản vay có tài sản đảm bảo dành cho khách hàng cá nhân kỳ hạn 12
tháng được bên Ngân hàng công bố có hiệu lực tại điểm điều chỉnh cộng (+)
biên độ 6,7%/năm; lãi suất quá hạn đối với dư nợ gốc và tiền lãi chậm trả bằng
150% mức lãi suất trong hạn kể từ thời điểm phát sinh nợ quá hạn; phương
thức cho vay: Cho vay từng lần; trả nợ gốc, lãi tiền vay: Bên vay phải trả nợ
gốc cho bên Ngân hàng một lần khi kết thúc thời hạn vay và bên vay phải trả
tiền lãi cho bên Ngân hàng theo định kỳ 01 tháng/lần vào ngày 10, kỳ trả nợ lãi
đầu tiên vào ngày 10-7-2019; tài sản bảo đảm cho khoản vay: Là thửa đất số
168, tờ bản đồ số 9, bản đồ địa chính thị trấn G lập năm 2002, chỉnh lý năm
3
2018; địa chỉ của thửa đất: Thị trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định thuộc quyền sở
hữu/sử dụng của bà Trần Thị B1, thửa đất theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CG 595194, số vào số cấp GCN: CS01212 do Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh Nam Định cấp ngày 17-4-2018, đứng tên người sử dụng đất là
bà Trần Thị B1 (Chi tiết về các biện pháp và tài sản bảo đảm được thỏa thuận
cụ thể trong Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ của người khác số 714532 ký ngày 15-6-2018, Hợp đồng đã được công
chứng, chứng nhận tại Văn phòng Công chứng Ngọc Ban, số công chứng
1872, quyển số 01/2018/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 15-6-2018); ngoài ra Hợp
đồng và Phụ lục của hợp đồng còn có các điều khoản quy định về điều kiện và
phương thức giải ngân, về chấm dứt việc cho vay và thu hồi nợ trước hạn và về
áp dụng điều kiện giao dịch chung và điều khoản thi hành...
Để bảo đảm cho khoản vay nêu trên của vợ chồng anh Trần Thế T, chị
Trần Thị H thì bà Trần Thị B1 là mẹ đẻ của anh T đã bảo lãnh bằng tài sản thế
chấp là toàn bộ quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với
đất tại thửa đất số 168, tờ bản đồ số 9, bản đồ địa chính thị trấn G lập năm
2002, chỉnh lý năm 2018; địa chỉ của thửa đất: Thị trấn G, huyện V, tỉnh Nam
Định, diện tích của thửa đất là 379m
2
, thửa đất theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CG 595194, số vào số cấp GCN: CS01212 do Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh Nam Định cấp ngày 17-4-2018, đứng tên người sử dụng đất là
bà Trần Thị B1, theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ của người khác số 714532 ngày 15-6-2018 đã được công chứng
tại Văn phòng Công chứng Ngọc Ban; địa chỉ: Số 88, Đặng Xuân Bảng,
phường Cửa Nam, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, số công chứng 1872,
quyển số 01/2018/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 15-6-2018 và Phụ lục hợp đồng
số 01/PLHĐ ngày 17-6-2019 Sửa đổi, bổ sung Hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác số 714532 ký ngày
15-6-2018 đã được công chứng tại Văn phòng Công chứng Ngọc Ban; địa chỉ:
Số 88, Đặng Xuân Bảng, phường Cửa Nam, thành phố Nam Định, tỉnh Nam
Định, số công chứng 1948b, quyển số 01/2019/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 17-6-
2019; tài sản bảo đảm này đã được đăng ký thế chấp tại Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai huyện V, tỉnh Nam Định vào ngày 15-6-2018.
Về quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng: Sau khi VPBank và vợ chồng
anh T, chị H ký kết hợp đồng tín dụng nêu trên thì cùng ngày, VPBank đã giải
ngân vốn vay cho vợ chồng anh T, chị H với số tiền VPBank đã giải ngân là
682.000.000đ (Sáu trăm tám mươi hai triệu đồng). Còn vợ chồng anh T, chị H
thì đã trả tiền lãi theo thỏa thuận cho VPBank được đến hết ngày 10-01-2021,
với tổng số tiền vợ chồng anh T, chị H đã trả là: 154.720.002 đồng, trong đó số
tiền trả nợ lãi trong hạn là 154.719.725 đồng, số tiền trả lãi chậm trả là 277
đồng, sau đó thì vợ chồng anh T, chị H đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho
VPBank theo Hợp đồng tín dụng mà hai bên đã ký kết, cụ thể từ ngày 11-01-
2021 cho đến nay vợ chồng anh T, chị H không có trả nợ thêm cho VPBank
được bất kỳ khoản tiền nào nữa. Tính đến thời điểm các mốc thời gian cụ thể
thì vợ chồng anh T, chị H còn nợ của VPBank các khoản tiền cụ thể như sau:
4
Tính đến ngày 08-3-2023, còn nợ tổng số tiền là 1.028.574.339 đồng;
trong đó số tiền nợ gốc là 682.000.000 đồng, số tiền nợ lãi trong hạn là
311.465.579 đồng và số tiền nợ lãi chậm trả gốc và lãi là 35.108.760 đồng.
Tính đến ngày 25-4-2023, còn nợ tổng số tiền là 1.051.252.827 đồng;
trong đó số tiền nợ gốc là 682.000.000 đồng, số tiền nợ lãi trong hạn là
329.911.343 đồng và số tiền nợ lãi chậm trả gốc và lãi là 39.341.484 đồng.
Tính đến ngày 04-7-2023, còn nợ tổng số tiền là 1.136.611.230 đồng;
trong đó số tiền nợ gốc là 682.000.000 đồng, số tiền nợ lãi trong hạn là
357.766.839 đồng và số tiền nợ lãi chậm trả gốc và lãi là 96.844.390 đồng.
Tính đến ngày 21-8-2024, còn nợ tổng số tiền là 1.278.447.888 đồng;
trong đó số tiền nợ gốc là 682.000.000 đồng, số tiền nợ lãi trong hạn là
499.725.330 đồng và số tiền nợ lãi chậm trả gốc và lãi là 96.722.558 đồng.
Tính đến ngày 06-9-2024, còn nợ tổng số tiền là 1.286.813.460 đồng;
trong đó số tiền nợ gốc là 682.000.000 đồng, số tiền nợ lãi trong hạn là
505.779.247 đồng và số tiền nợ lãi chậm trả gốc và lãi là 99.034.213 đồng.
Tính đến ngày 23-9-2024, còn nợ tổng số tiền là 1.295.760.037 đồng;
trong đó số tiền nợ gốc là 682.000.000 đồng, số tiền nợ lãi trong hạn là
512.211.535 đồng và số tiền nợ lãi chậm trả gốc và lãi là 101.548.502 đồng.
Như vậy, trong quá trình thực hiện Hợp đồng tín dụng số
LN1906131458962 ngày 17-6-2019 thì vợ chồng anh T, chị H đã vi phạm
nghĩa vụ trả nợ gốc vay và lãi vay đã được ghi trong Hợp đồng tín dụng. Do
đó, để bảo đảm quyền lợi ích hợp pháp của VPBank, VPBank khởi kiện yêu
cầu Tòa án xem xét, giải quyết cho VPBank những nội dung như sau:
- Buộc vợ chồng anh Trần Thế T, chị Trần Thị H phải thực hiện toàn bộ
các nghĩa vụ trả nợ cho VPBank theo Hợp đồng tín dụng số
LN1906131458962 ngày 17-6-2019, tính đến ngày 23-9-2024 với tổng số tiền
là 1.295.760.037 đồng, trong đó số tiền gốc là 682.000.000 đồng, số tiền lãi
trong hạn là 512.211.535 đồng và số tiền lãi chậm trả gốc và lãi là 101.548.502
đồng.
- Buộc vợ chồng anh Trần Thế T, chị Trần Thị H phải tiếp tục trả cho
VPBank toàn bộ khoản tiền lãi phát sinh kể từ ngày 24-9-2024 cho đến ngày
vợ chồng anh T, chị H thực trả hết số tiền nợ của VPBank theo mức lãi suất
thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số LN1906131458962 ngày 17-6-2019.
- Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật mà vợ chồng anh Trần Thế T,
chị Trần Thị H không trả nợ đầy đủ cho VPBank thì VPBank có quyền yêu cầu
cơ quan thi hành án có thẩm quyền kê biên, phát mại tài sản bảo đảm để thu
hồi nợ cho VPBank. Tài sản bảo đảm là toàn bộ quyền sử dụng đất tại thửa đất
số 168, tờ bản đồ số 9; địa chỉ: Thị trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định, thửa đất
số 168 theo thông tin Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hưu nhà ở
và tài sản gắn liền với đấ số CG 595194, số vào số cấp GCN: CS01212 do Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh Nam Định cấp ngày 17-4-2018, đứng tên bà
Trần Thị B1, theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ của người khác đã được công chứng tại Văn phòng Công chứng Ngọc
Ban; địa chỉ: Số 88, Đặng Xuân Bảng, phường Cửa Nam, thành phố Nam
5
Định, tỉnh Nam Định, số công chứng 1872, quyển số 01/2018/TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 15-6-2018 cùng toàn bộ các tài sản hiện có gắn liền trên
thửa đất số 168.
- Trường hợp xử lý tài sản bảo đảm mà không đủ tiền để thu hồi toàn bộ
khoản nợ cho VPBank thì vợ chồng anh Trần Thế T, chị Trần Thị H phải tiếp
tục trả nợ cho VPBank cho đến khi nào hoàn thành xong toàn bộ khoản nợ của
VPBank.
* Tại bản tự khai ngày 04-7-2023, biên bản làm việc ngày 21-8-2023 và
lời khai trong quá trình tham gia tố tụng, bị đơn là vợ chồng anh Trần Thế T,
chị Trần Thị H trình bày như sau:
Bà Trần Thị B1, sinh năm 1956; địa chỉ: Tổ dân phố VC, thị trấn G,
huyện V, tỉnh Nam Định là mẹ đẻ của anh T và là mẹ chồng của chị H. Bắt đầu
từ năm 2015, vợ chồng anh, chị đã vay vốn của VPBank và mỗi năm vợ chồng
anh, chị đều phải đáo hạn một lần. Đối với những hợp đồng vay vốn từ năm
2015 đến tháng 5/2019 thì vợ chồng anh, chị đều đã hoàn thành xong mọi
nghĩa vụ trả nợ cho VPBank đối với các Hợp đồng vay vốn mà vợ chồng anh,
chị và VPBank đã ký kết với nhau từ năm 2015 đến tháng 5/2019 và hai bên
đều đã thanh lý toàn bộ những Hợp đồng vay vốn đó. Sau đó đến ngày 17-6-
2019 vợ chồng anh, chị lại tiếp tục ký kết 01 Hợp đồng vay vốn của VPBank
(Hợp đồng số LN1906131458962), với số tiền vay là 682.000.000đ (Sáu trăm
tám mươi hai triệu đồng), thời hạn vay là 12 tháng, mục đích vay để bổ sung
vốn kinh doanh, mở rộng kinh doanh sản xuất mua bán đồ gỗ.
Các lần vợ chồng anh, chị ký kết Hợp đồng vay vốn của VPBank thì vợ
chồng anh, chị đều mượn tài sản của bà Trần Thị B1 để thế chấp cho VPBank
để bảo đảm cho khoản vay của vợ chồng anh, chị tại VPBank. Tài sản của bà
B1 thế chấp cho VPBank để cho vợ chồng anh, chị vay vốn là thửa đất số 168,
tờ bản đồ số 9, bản đồ địa chính thị trấn G lập năm 2002 chỉnh lý năm 2018;
địa chỉ của thửa đất: Thị trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định, diện tích của thửa
đất là 379m
2
; thửa đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CG 595194, số vào sổ cấp GCN CS
01212 do sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Nam Định cấp ngày 17-4-2018,
đứng tên người sử dụng đất là bà Trần Thị B1. Lần vợ chồng anh, chị vay vốn
của VPBank theo Hợp đồng tín dụng số LN1906131458962 ngày 17-6-2019
thì tài sản bảo đảm cho khoản vay đó vẫn là tài sản của bà Trần Thị B1 thế
chấp cho VPBank như đã nêu ở trên.
Đối với lần vay vốn theo Hợp đồng tín dụng số LN1906131458962 ngày
17-6-2019 thì hàng tháng vợ chồng anh, chị vẫn đều đặn trả tiền lãi suất cho
VPBank từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng và vợ chồng anh, chị đã trả
tiền lãi suất cho VPBank được đến hết ngày 10-01-2021, với tổng số tiền là
154.719.725 đồng, còn tiền gốc thì vợ chồng anh, chị chưa trả cho VPBank
được đồng nào. Sau đó thì do làm ăn kinh doanh bị thua lỗ và bị vỡ nợ dẫn đến
hoàn cảnh kinh tế của gia đình vợ chồng anh, chị rất là khó khăn nên vợ chồng
anh, chị không trả nợ thêm cho VPBank được bất kỳ một khoản tiền nợ nào
nữa. Nay vợ chồng anh, chị xác định vợ chồng anh, chị còn nợ của VPBank
6
khoản tiền gốc vay với số tiền là: 682.000.000 đồng và các khoản tiền lãi theo
thỏa thuận từ ngày 11-01-2021 cho đến nay.
Nay VPBank khởi kiện đòi nợ vợ chồng anh, chị thì do hoàn cảnh kinh
tế của gia đình anh, chị hiện nay rất là khó khăn, vợ chồng anh, chị làm ăn kinh
doanh bị thua lỗ và bị vỡ nợ. Do vây, vợ chồng anh, chị đề nghị VPBank xem
xét cho vợ chồng anh, chị được trả nợ dần khoản tiền gốc vay trong thời hạn là
03 năm và cho vợ chồng anh, chị xin được miễn toàn bộ khoản tiền lãi và tiền
phạt.
Đối với bà Trần Thị B1 thì bà B1 đã bị chết vào ngày 03-10-2019 vì tai
nạn giao thông. Bà B1 có 03 người con đẻ là anh Trần Thế Tr, sinh năm 1976;
địa chỉ: Tổ dân phố VC, thị trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định; chị Trần Thị Mi,
sinh năm 1978; địa chỉ: Phường TD, thành phố B, tỉnh Đồng Nai và Trần Thế
T, sinh năm 1990; địa chỉ: Địa chỉ: Tổ dân phố VC, thị trấn G, huyện V, tỉnh
Nam Định. Ngoài 03 người con đẻ nêu trên ra thì bà B1 không còn có người
con nuôi, con riêng nào. Hiện nay cả 03 người con của bà B1 đều còn sống và
đều đã lập gia đình và có cuộc sống riêng. Hiện nay anh Tr và anh T thì đang
cư trú tại tổ dân phố VC, thị trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định, còn chị M thì đã
đi khỏi tổ dân phố VC, thị trấn G, huyện V từ khoảng năm 2000 và hiện nay
chị M đang làm ăn, sinh sống ở trong phường TD, thành phố B, tỉnh Đồng Nai
nhưng vợ chồng anh, chị không biết được địa chỉ cụ thể của chị M tại phường
TD, thành phố B, tỉnh Đồng Nai là như thế nào và vợ chồng anh, chị cũng
không biết được số điện thoại của chị M cũng như của chồng con của chị M là
như thế nào.
* Đối với bà Trần Thị B1 là người đã thế chấp tài sản thuộc quyền sở
hữu hợp pháp của bà B1 để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với khoản vay nêu
trên của vợ chồng anh Trần Thế T, chị Trần Thị H tại VPBank. Nhưng sau khi
bà B1 và VPBank ký kết Hợp đồng thế chấp tài sản số 7145532 ngày 15-6-
2018 và Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ ngày 17-6-2019 Sửa đổi, bổ sung Hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người
khác số 714532 ký ngày 15-6-2018 thì đến ngày 03-10-2019 bà B1 đã bị chết
do tai nạn giao thông và trước khi chết thì bà B1 cũng không có để lại di chúc
hoặc văn bản, giấy tờ gì về tài sản mà bà B1 đã thế chấp cho VPBank, mặt
khác thì thời điểm Tòa án thụ lý vụ án thì bà B1 cũng đã chết rồi. Do đó, hồ sơ
vụ án không có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện quan điểm của bà B1 về tài sản
mà bà B1 đã thế chấp cho VPBank. Vì bà B1 là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong vụ án nên trong quá trình tiến hành tố tụng giải quyết vụ án
Tòa án đã đưa bổ sung những người con đẻ còn lại của bà B1 vào tham gia tố
tụng trong vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
* Tại biên bản lấy lời khai đương sự ngày 06-9-2023, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Trần Thế Tr trình bày như sau:
Anh là con trai thứ nhất của bà Trần Thị B1, bà B1 có chồng là ông Trần
Thế Triệu. Nhưng ông Triệu thì đã mất năm 2007, còn bà B1 thì đã mất năm
2019. Bà B1 và ông Triệu có 03 người con đẻ gồm có anh, chị Trần Thị M và
anh Trần Thế T. Bà B1 không có người con nuôi, con riêng nào. Hiện nay cả 03
người con đẻ của bà B1 thì đều đã lập gia đình và ở riêng, anh và anh T thì đang
7
sinh sống tại tổ dân phố VC, thị trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định, còn chị M thì
đang làm ăn, sinh sống ở trong phường TD, thành phố B, tỉnh Đồng Nai nhưng
anh không biết được địa chỉ cụ thể của chị M tại phường TD, thành phố B, tỉnh
Đồng Nai là như thế nào và anh cũng không nhớ được số điện thoại của chị M,
anh sẽ hỏi và xin số điện thoại của chị M rồi anh sẽ thông báo cho Tòa án sau.
Về quan điểm giải quyết vụ án của anh như sau:
- Anh đề nghị Tòa án xem xét buộc VPBank phải thanh toán cho bà Trần
Thị B1 mẹ của anh khoản tiền bảo hiểm mà mẹ anh và vợ chồng anh T, chị H
đã nộp theo khoản vay tại VPBank.
- Anh đề nghị Tòa án xem xét hạ lãi suất và giảm lãi phạt cho vợ chồng
anh T, chị H để vợ chồng anh T, chị H còn có khả năng trả nợ và trả nợ dần
cho VPBank.
- Về các tài sản mà bà Trần Thị B1 mẹ của anh đã thế chấp cho VPBank
để bảo đảm cho khoản vay của vợ chồng anh T, chị H tại VPBank thì anh hoàn
toàn nhất trí, anh không có ý kiến gì, vì các tài sản đó là tài sản thuộc quyền sở
hữu của mẹ anh. Trường hợp nếu như vợ chồng anh T, chị H không trả nợ
được cho VPBank thì VPBank sẽ yêu cầu cơ quan có thẩm quyền kê biên, phát
mại tài sản mà bà B1 đã thế chấp cho VPBank thì anh đề nghị Tòa án xem xét,
giải quyết theo quy định của pháp luật.
* Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Trần Thị M thì
sau khi Toà án đưa chị M vào tham gia tố tụng, Tòa án và VPBank đã tiến
hành xác minh, thu thập địa chỉ cư trú chính xác hiện nay của chị M để thông
báo và triệu tập chị M đến Tòa án để tham gia tố tụng giải quyết vụ án. Nhưng
những người anh, em thân thích của chị M cũng như chính quyền địa phương
nơi chị M cư trú cuối cùng chỉ có cung cấp và xác định là chị M đã đi khỏi nơi
cư trú cuối cùng tại tổ dân phố VC, thị trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định từ năm
2000 và nay chỉ biết được chị M hiện đang làm ăn, sinh sống trong phường
TD, thành phố B, tỉnh Đồng Nai còn địa chỉ cụ thể, chính xác của chị M tại
phường TD, thành phố B như thế nào thì không có ai biết được. Nên, VPBank
đã yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú đối với
chị M và ngày 22-3-2024 thì Tòa án đã ra quyết định thông báo tìm kiếm
người vắng mặt tại nơi cư trú đối với chị M trên các phương tiện thông tin đại
chúng ở trung ương theo quy định của pháp luật nhưng cho đến nay chị M
cũng không về Tòa án làm việc lần nào và chị M cũng không có liên hệ gì
với Tòa án và cũng không có ai cung cấp thông tin gì về chị M cho Toà án.
Do đó, hồ sơ vụ án không có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện quan điểm của chị
M.
* Tại biên bản thu thập chứng cứ ngày 16-6-2023, đại diện UBND thị
trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định cung cấp như sau:
Vợ chồng anh Trần Thế T, chị Trần Thị H có đăng ký hộ khẩu thường
trú và cư trú tại: Tổ dân phố VC, thị trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định.
Bà Trần Thị B1, sinh năm 1956; địa chỉ: Tổ dân phố VC, thị trấn G,
huyện V, tỉnh Nam Định là mẹ đẻ của anh Trần Thế T và là mẹ chồng của chị
Trần Thị H. Bà B1 đã bị chết vào ngày 03-10-2019 do tai nạn giao thông
đường bộ. Bà B1 có chồng là ông Trần Thế Triệu và ông Triệu cũng đã bị chết
8
vào năm 2007. Bà B1 và ông Triệu có 03 người con đẻ là anh Trần Thế Tr, sinh
năm 1976, hiện nay đang cư trú tại tổ dân phố VC, thị trấn G, huyện V, tỉnh
Nam Định; chị Trần Thị M, sinh năm 1978, chị M thì đã rời đi khỏi thị trấn G
từ khoảng năm 2000, theo như những người anh, em thân thích của chị M báo
cáo thì hiện nay chị M đang làm ăn, sinh sống ở trong phường TD, thành phố
B, tỉnh Đồng Nai và anh Trần Thế T, hiện nay đang cư trú tại tổ dân phố VC,
thị trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định. Hiện nay vợ chồng anh T, chị H đang trực
tiếp sinh sống tại thửa đất số 168, tờ bản đồ số 9, bản đồ thị trấn G lập năm
2002, chỉnh lý năm 2018 của bà Trần Thị B1 để lại.
Về việc vợ chồng anh Trần Thế T, chị Trần Thị H có vay tiền và nợ tiền
của VPBank hay không thì địa phương không nắm bắt được rõ, vì khi vay tiền
vợ chồng anh T, chị H cũng như là VPBank không làm hồ sơ tại UBND thị
trấn G và cũng không có thông báo hoặc báo cáo gì với UBND thị trấn G nên
địa phương không nắm bắt được quá trình vay nợ giữa vợ chồng anh T, chị H
và VPBank như thế nào.
Về tài sản mà bà Trần Thị B1 đã thế chấp cho VPBank: Theo như Hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người
khác số 714532 ngày 15-6-2018 và Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ ngày 17-6-
2019 Sửa đổi, bổ sung Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ của người khác số 714532 ký ngày 15-6-2018 mà bà B1 và
VPBank đã ký kết thể hiện thì bà B1 đã thế chấp cho VPBank thửa đất số 168,
tờ bản đồ số 9, bản đồ thị trấn G lập năm 2002, chỉnh lý năm 2018, thửa đất số
168 đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Nam Định cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số CG 595194, số vào sổ cấp GCN CS 01212, ngày
17-4-2018, đứng tên người sử dụng đất là bà Trần Thị B1, diện tích của thửa
đất là 379m
2
, thửa đất có các chiều các cạnh như sau: Cạnh phía Đông có 02
đoạn, đoạn thứ nhất tiếp giáp với thửa đất số 166 của hộ gia đình ông Khánh
dài là 9,1m, đoạn thứ hai tiếp giáp với thửa đất số 167 của hộ gia đình ông Sơn
dài là 13,3m; cạnh phía Tây tiếp giáp với đường dong xóm có 02 đoạn, đoạn
thứ nhất dài là 8,9m, đoạn thứ hai dài là 13,3m; cạnh phía Nam tiếp giáp với
thửa đất số 227 của hộ gia đình ông Chung dài là 14,9m; cạnh phía Bắc tiếp
giáp với thửa đất số 169 của hộ gia đình ông Phương, có 03 đoạn, đoạn thứ
nhất dài là 13,5m, đoạn thứ hai dài là 0,5m và đoạn thứ ba dài là 4,9.
Về các tài sản hiện có gắn liền trên thửa đất số 168 tại thời điểm hiện
nay gồm có: 01 nhà ở 2 tầng, trong đó tầng 1 diện tích khoảng 110m
2
, tầng 2
có 02 khu, khu 1 mái bằng diện tích khoảng 30m
2
, khu 2 mái lợp tôn diện tích
khoảng 80m
2
; 02 Lán mái lợp tôn tổng diện tích khoảng 40m
2
; 01 Bếp và nhà
ăn đang xây dựng diện tích khoảng 75-80m
2
. Hiện trạng chưa sử dụng chỉ mới
xây dựng xong phần tường, chưa có mái, chưa có cửa; 04 Đoạn tường bao; 01
Trụ cổng cũ xây bằng gạch chỉ; 02 Trụ cổng, lõi trụ cổng bằng bê tông cốt thép
xây bao gạch bê tông bên ngoài và mái cổng bằng bê tông cốt thép. Trụ cổng
và mái cổng chưa trát và chưa có cánh cổng; Sân bê tông diện tích
khoảng145m
2
và 01 cây Vú sữa đường kính khoảng 15cm, cao khoảng 03m.
Từ thời điểm năm 2018 cho đến thời điểm hiện nay thì chính quyền địa
phương không có chứng thực hoặc xác nhận bất kỳ một văn bản, giấy tờ, tài
9
liệu nào có liên quan đến thửa đất số 168, tờ bản đồ số 9, bản đồ thị trấn G lập
năm 2002, chỉnh lý năm 2018 nêu trên để cho bà B1 và vợ chồng anh T, chị H
thế chấp cho một Ngân hàng nào hoặc chuyển nhượng cho một người nào
khác.
Nay, VPBank khởi kiện đòi nợ vợ chồng anh T, chị H, địa phương đề
nghị Tòa án xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.
* Tại biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 16-6-2023 đã thể hiện
thửa đất số 168, tờ bản đồ số 9, bản đồ thị trấn G lập năm 2002, chỉnh lý năm
2018 và các tài sản hiện có gắn liền trên thửa đất tại thời điểm tiến hành xem
xét, thẩm định tại chỗ như sau:
- Về thửa đất: Thửa đất có diện tích là 379m
2
và có các chiều các cạnh
cụ thể như sau:
Cạnh phía Đông, có 02 đoạn tính từ Bắc sang Nam, đoạn thứ nhất tiếp
giáp với thửa đất số 166 của hộ ông Khánh dài là 9,1m, đoạn thứ hai tiếp giáp
với thửa đất số 167 của hộ ông Sơn dài là 13,3m;
Cạnh phía Tây tiếp giáp với đường dong xóm, có 02 đoạn tính từ Nam
sang Bắc, đoạn thứ nhất dài là 8,9m, đoạn thứ hai dài là 13,3m;
Cạnh phía Nam tiếp giáp với thửa đất số 227 của hộ ông Chung dài là
14,9m;
Cạnh phía Bắc tiếp giáp với thửa đất số 169 của hộ ông Phương, có 03
đoạn tính từ Tây sang Đông, đoạn thứ nhất dài là 13,5m, đoạn thứ hai dài là
0,5m và đoạn thứ ba dài là 4,9.
- Về các tài sản hiện có gắn liền trên thửa đất gồm có:
+ Về cây cối: 01 cây Vú sữa đường kính 15cm, cao 03m.
+ Về các công trình xây dựng:
. 01 nhà ở 2 tầng, mái bằng bê tông cốt thép, tường xây bằng gạch chỉ đỏ
dày 0,22m, có công trình phụ khép kín. Trong đó tầng 1 cao 3,9m, diện tích là
(16,25x6,8)m = 110,5m
2
, tường và trần quét sơn, cửa gỗ pano kính, nền lát
gạch men liên doanh, có mắc điện dân dụng; tầng 2 có 02 khu, khu 1 mái bằng
bê tông cốt thép, cao 3,6m, diện tích là (4,35x6,8)m = 29,58m
2
, tường và trần
quét sơn, cửa khung nhôm kính, nền lát gạch men liên doanh, có mắc điện dân
dụng, khu 2 mái lợp tôn, chống nóng có tường bao che, cao 2,5m, xà gồ vì kèo
bằng thép hình cửa khung nhôm kính, nền lát gạch men liên doanh, có mắc
điện dân dụng, diện tích là 80,92m
2
, có đóng trần nhựa diện tích là 55,08m
2
.
. 02 Lán mái tôn có cột, vì kèo, xà gồ bằng thép hình, cao 04m, diện tích
là (1,4x6,8)m + (6,5x05)m = 42,02m
2
.
. 01 Bếp và nhà ăn đang xây dựng, tường xây bằng gạch bê tông dày
0,15m, cao 04m, diện tích là (14,9x5,25)m = 78,23m
2
. Hiện trạng chưa sử
dụng chỉ mới xây dựng xong phần tường, chưa có mái, chưa có cửa, nền láng
vữa bê tông và đang hoàn thiện đường điện và đường nước.
. Đoạn tường bao số 1 xây bằng gạch đỏ dày 0,22m, cao 2,1m, dài 6,8m,
diện tích là 14,28m
2
.
10
. Đoạn tường bao số 2 gồm 02 phần. Phần dưới xây bằng gạch đỏ dày
0,22m, cao 1,1m, dài 6,1m, diện tích là 6,71m
2
. Phần trên là nan thoáng bằng
sắt hộp tráng kẽm cao 01m, dài 6,1m, diện tích là 6,1m
2
.
. Đoạn tường bao số 3 xây bằng gạch bê tông dày 0,15m, cao 1,1m, dài
02m, diện tích là 2,2m
2
(đoạn tường này chưa trát).
. Đoạn tường bao số 4 xây bằng gạch bê tông dày 0,10m, cao 2,5m, dài
9,5m, diện tích là 23,75m
2
.
. 01 Trụ cổng cũ xây bằng gạch chỉ, tiết diện (0,4x0,4)m, cao 2,5m, thể
tích là 0,4m
3
.
. Cổng và mái cổng đang xây dựng gồm có 02 trụ cổng, lõi trụ cổng
bằng bê tông cốt thép xây bao gạch bê tông ở ngoài, tiết diện của 02 trụ đều là
(0,6x0,6)m, cao 3,1m. Mái cổng bằng bê tông cốt thép dày là 0,10m, diện tích
là 12m
2
, thể tích là 1,2m
3
. Trụ cổng và mái cổng chưa trát, chưa có điện và
chưa có cánh cổng.
. Sân bê tông tổng diện tích là 147,5m
2
.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V tham gia phiên tòa phát biểu
ý kiến như sau:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Thư ký Tòa án
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cũng như của Hội đồng xét xử và Thư ký phiên
tòa tại phiên tòa.
- Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự.
- Về yêu cầu khởi kiện của đương sự: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ
vào các Điều 26, 35, 39, 144, 147, 266, 267, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015; khoản 2 Điều 292 và các Điều 295, 299, 317, 318, 319, 320, 322,
323, 325, 463, 466, 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 91 của
Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi, bổ sung năm 2017; các Điều 27,
37 của Luật Hôn nhân và gia đình và Điều 26 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án
phí và lệ phí. Xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương
mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng (Viết tắt là VPBank), cụ thể:
+ Buộc anh Trần Thế T và chị Trần Thị H phải trả nợ cho Ngân hàng
thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng (Viết tắt là VPBank) toàn bộ số
tiền nợ gốc, nợ lãi, lãi chậm và các khoản phát sinh liên quan theo Hợp đồng
tín dụng số LN1906131458962 ngày 17-6-2019, tính đến ngày 23-9-2024 tổng
số tiền là 1.295.760.037 đồng, trong đó số tiền nợ gốc là 682.000.000 đồng, số
tiền nợ lãi là 512.211.535 đồng và số tiền nợ lãi chậm trả là 101.548.502 đồng
và toàn bộ tiền lãi phát sinh kể từ ngày 24-9-2024 cho đến khi anh Trần Thế T
và chị Trần Thị H thanh toán xong hết nợ cho VPBank.
+ Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật mà anh Trần Thế T và chị
Trần Thị H không trả nợ đầy đủ cho VPBank thì VPBank có quyền yêu cầu cơ
quan thi hành án dân sự có thẩm quyền kê biên, phát mại tài sản bảo đảm để
thu hồi nợ cho VPBank. Tài sản bảo đảm là toàn bộ quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 168, tờ bản đồ số 9, bản
đồ địa chính thị trấn G lập năm 2002, chỉnh lý năm 2018; địa chỉ của thửa đất:
11
Thị trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định, thửa đất theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CG 595194, số vào số cấp GCN: CS01212 do Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh Nam Định cấp ngày 17-4-2018, đứng tên bà Trần Thị B1, theo
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của
người khác số 714532 ngày 15-6-2018, Hợp đồng thế chấp này đã được công
chứng tại Văn phòng Công chứng Ngọc Ban; địa chỉ: Số 88, Đặng Xuân Bảng,
phường Cửa Nam, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, số công chứng 1872,
quyển số 01/2018/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 15-6-2018 và Phụ lục hợp đồng
số 01/PLHĐ ngày 17-6-2019 sửa đổi, bổ sung Hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác số 714532 ký ngày
15-6-2018, Phụ lục hợp đồng này đã được công chứng tại Văn phòng Công
chứng Ngọc Ban; địa chỉ: Số 88, Đặng Xuân Bảng, phường Cửa Nam, thành
phố Nam Định, tỉnh Nam Định, số công chứng 1948b, quyển số
01/2019/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 17-6-2019.
+ Nếu số tiền thu được từ xử lý tài sản bảo đảm mà không đủ để thanh
toán hết khoản nợ của VPBank thì anh Trần Thế T và chị Trần Thị H có nghĩa
vụ phải tiếp tục trả hết khoản nợ còn lại của VPBank.
+ VPBank được quyền yêu cầu cơ quan thi hành án áp dụng các biện
pháp cần thiết để kê biên, xử lý các tài sản khác thuộc quyền sở hữu của anh
anh Trần Thế T và chị Trần Thị H để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo bản
án/quyết định của Tòa án cho đến khi anh Trần Thế T và chị Trần Thị H thực
hiện hết nghĩa vụ với VPBank.
+ Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc anh Trần Thế T và chị Trần Thị H
phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Hoàn trả
lại cho VPBank số tiền VPBank đã nộp tạm ứng án phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thẩm quyền: Xét tại thời điểm Tòa án thụ lý vụ án cũng như tại
thời điểm Tòa án xét xử sơ thẩm vụ án thì bị đơn là vợ chồng anh Trần Thế T,
chị Trần Thị H có đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại Tổ dân phố VC, thị
trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định. Do đó, Tòa án nhân dân huyện V thụ lý và
giải quyết sơ thẩm vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm b khoản 1
Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Xét quan hệ pháp luật tranh chấp
của vụ án là “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” theo quy định tại khoản 3
Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về thủ tục tố tụng: Xét sau khi Tòa án đưa bổ sung anh Trần Thế Tr
và chị Trần Thị M vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án thì Toà án đã nhiều lần thông báo và triệu tập
anh Tr, chị M đến Tòa án để tham gia tố tụng giải quyết vụ án, ngoài ra Tòa án
còn thông báo tìm kiếm chị M trên các phương tiện thông tin đại chúng ở trung
ương theo quy định của pháp luật để cho chị M biết để về Tòa án tham gia tố
tụng giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật nhưng anh Tr và chị M
không đến Tòa án làm việc lần nào và đều vắng mặt không có lý do và cho đến
12
nay thì chị M cũng không có liên hệ gì với Tòa án và Toà án cũng không
biết được và không xác định được địa chỉ cư trú chính xác của chị M hiện
nay như thế nào. Do đó, Toà án không làm việc được với chị M. Do đó, hồ sơ
vụ án không có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện quan điểm của chị M. Tại phiên
tòa anh Trần Thế T, chị Trần Thị H, anh Trần Thế Tr và chị Trần Thị M vắng
mặt, nhưng xét thấy Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh T, chị H, anh Tr và chị M
lần thứ hai nhưng anh T, chị H, anh Tr và chị M vẫn vắng mặt mà không có lý
do chính đáng, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Do
đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án theo quy định tại điểm
b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung vụ án và yêu cầu khởi kiện của đương sự: Căn cứ vào
các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết
quả tranh tụng tại phiên tòa và căn cứ vào sự thừa nhận của các bên đương sự về
những tình tiết, sự kiện có liên quan đến vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy vào
ngày 17-6-2019, tại Chi nhánh của Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Thịnh Vượng (Viết tắt là VPBank) - Chi nhánh Nam Định giữa VPBank và vợ
chồng anh Trần Thế T, chị Trần Thị H đã cùng nhau ký kết 01 Hợp đồng tín
dụng số LN1906131458962 ngày 17-6-2019 và 01 Phụ lục hợp đồng số
01/PlHĐ ngày 17-6-2019 về việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác số 714532 ký ngày
15-6-2018, với những điều khoản cơ bản như sau: Về số tiền cho vay là
682.000.000đ (Sáu trăm tám mươi hai triệu đồng); về thời hạn cho vay là 12
tháng; về mục đích vay để bổ sung vốn kinh doanh/mở rộng kinh doanh sản
xuất mua bán đồ gỗ; về lãi suất vay + phí và kỳ hạn điều chỉnh: Lãi suất cho
vay trong hạn tại thời điểm giải ngân là 13,5%/năm và được cố định 03 tháng
kể từ ngày giải ngân, hết thời hạn 03 tháng lãi suất sẽ được điều chỉnh định kỳ
01 tháng/lần với mức điều chỉnh được xác định bằng mức lãi suất cơ sở VNĐ
áp dụng đối với khoản vay có tài sản đảm bảo dành cho khách hàng cá nhân kỳ
hạn 12 tháng được bên Ngân hàng công bố có hiệu lực tại điểm điều chỉnh
cộng biên độ 6,7%/năm; lãi suất quá hạn đối với dư nợ gốc và tiền lãi chậm trả
bằng 150% mức lãi suất trong hạn kể từ thời điểm phát sinh nợ quá hạn; về
phương thức cho vay là cho vay từng lần; về trả nợ gốc, lãi tiền vay: Bên vay
phải trả nợ gốc một lần khi kết thúc thời hạn vay, bên vay phải trả tiền lãi theo
định kỳ 01 tháng/lần vào ngày 10, kỳ trả nợ lãi đầu tiên vào ngày 10-7-2019;
về tài sản bảo đảm cho khoản vay là thửa đất số 168, tờ bản đồ số 9, bản đồ địa
chính thị trấn G lập năm 2002, chỉnh lý năm 2018; địa chỉ của thửa đất: Thị
trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định; ngoài ra thì hợp đồng và phụ lục hợp đồng
còn có các điều khoản quy định về điều kiện và phương thức giải ngân, về
chấm dứt việc cho vay và thu hồi nợ trước hạn và về áp dụng điều kiện giao
dịch chung và điều khoản thi hành...
Ngay sau khi VPBank và vợ chồng anh T, chị H ký kết Hợp đồng tín
dụng và Phụ lục hợp đồng thế chấp nêu trên thì cùng ngày, VPBank đã tiến
hành giải ngân vốn vay cho vợ chồng anh T, chị H, với số tiền VPBank đã giải
ngân cho vợ chồng anh T, chị H vay là 682.000.000đ (Sáu trăm tám mươi hai
triệu đồng).
13
Để bảo đảm cho khoản tiền vay của vợ chồng anh T, chị H tại VPBank
nêu trên thì bà Trần Thị B1 là mẹ đẻ của anh Trần Thế T đã bảo lãnh bằng tài
sản thế chấp là toàn bộ quyền sử dụng đất tại thửa đất số 168, tờ bản đồ số 9,
bản đồ địa chính thị trấn G lập năm 2002, chỉnh lý năm 2018; địa chỉ của thửa
đất: Thị trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định, diện tích của thửa đất là 379m
2
, thửa
đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CG 595194, số vào số cấp
GCN: CS01212 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Nam Định cấp ngày 17-
4-2018, đứng tên người sử dụng đất là bà Trần Thị B1; tài sản mà bà B1 thế
chấp cho VPBank theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ của người khác số 714532 ngày 15-6-2018, hợp đồng thế chấp
này đã được công chứng tại Văn phòng Công chứng Ngọc Ban; địa chỉ: Số 88,
Đặng Xuân Bảng, phường Cửa Nam, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, số
công chứng 1872, quyển số 01/2018/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 15-6-2018 và
Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ ngày 17-6-2019 về việc sửa đổi, bổ sung hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người
khác số 714532 ký ngày 15-6-2018, phụ lục hợp đồng thế chấp này đã được
công chứng tại Văn phòng Công chứng Ngọc Ban; địa chỉ: Số 88, Đặng Xuân
Bảng, phường Cửa Nam, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, số công chứng
1948b, quyển số 01/2019/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 17-6-2019 và tài sản mà
bà B1 thế chấp cho VPBank đã được đăng ký thế chấp tại Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai huyện V, tỉnh Nam Định vào ngày 15-6-2018.
Xét Hợp đồng tín dụng mà VPBank và vợ chồng anh T, chị H đã ký kết
nêu trên thì thấy Hợp đồng đã được lập thành văn bản, có đầy đủ chữ ký, con
dấu của các bên có liên quan và việc ký kết hợp đồng bảo đảm nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng; nội dung của
hợp đồng đã thể hiện đầy đủ các điều khoản cụ thể theo quy định của pháp luật
và không có điều khoản nào vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo
đức xã hội. Nên, hình thức và nội dung của Hợp đồng tín dụng mà VPBank và
vợ chồng anh T, chị H đã ký kết với nhau đã bảo đảm đúng theo quy định của
Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 được sửa đổi,
bổ sung năm 2017. Do đó, Hợp đồng tín dụng số LN1906131458962 ngày 17-
6-2019 mà VPBank và vợ chồng anh T, chị H đã ký kết với nhau là hợp pháp.
Nên, có hiệu lực thi hành và có giá trị thực hiện.
Xét Hợp đồng thế chấp và Phụ lục sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp
mà bà Trần Thị B1 và VPBank đã ký kết nêu trên thì thấy tài sản mà bà B1 đã
thế chấp cho VPBank để bảo đảm cho khoản vay của vợ chồng anh T, chị H tại
VPBank là toàn bộ quyền sử dụng đất tại thửa đất số 168, tờ bản đồ số 9, bản
đồ địa chính thị trấn G lập năm 2002, chỉnh lý năm 2018; địa chỉ của thửa đất:
Thị trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định, diện tích của thửa đất là 379m
2
, thửa đất
thế chấp này đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Nam Định cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CG 595194, số vào số cấp GCN: CS01212
ngày 17-4-2018, đứng tên người sử dụng đất trong giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất là bà Trần Thị B1; tài sản mà bà B1 thế chấp cho VPBank theo Hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người
khác số 714532 ngày 15-6-2018, hợp đồng thế chấp này đã được công chứng,
14
chứng nhận tại Văn phòng Công chứng Ngọc Ban; địa chỉ: Số 88, Đặng Xuân
Bảng, phường Cửa Nam, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, số công chứng
1872, quyển số 01/2018/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 15-6-2018 và Phụ lục hợp
đồng số 01/PLHĐ ngày 17-6-2019 sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp quyền
sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác số 714532 ký ngày
15-6-2018, phụ lục hợp đồng này đã được công chứng tại Văn phòng Công
chứng Ngọc Ban; địa chỉ: Số 88, Đặng Xuân Bảng, phường Cửa Nam, thành
phố Nam Định, tỉnh Nam Định, số công chứng 1948b, quyển số
01/2019/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 17-6-2019 và tài sản thế chấp cũng đã được
đăng ký thế chấp tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện V, tỉnh Nam
Định vào ngày 15-6-2018. Xét việc bà Trần Thị B1 và VPBank ký kết Hợp
đồng thế chấp và Phụ lục sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp nêu trên là hoàn
toàn tự nguyện và công khai, hợp đồng và phụ lục của hợp đồng đã được lập
thành văn bản, có đầy đủ chữ ký, con dấu của các bên có liên quan, nội dung
của hợp đồng và phụ lục của hợp đồng đã thể hiện đầy đủ các điều khoản cụ
thể theo quy định của pháp luật; mặt khác hợp đồng và phụ lục của hợp đồng
đã được công chứng, chứng nhận tại Văn phòng công chứng theo quy định của
pháp luật và sau khi các bên ký kết hợp đồng thế chấp thì tài sản thế chấp đã
được đăng ký thế chấp tại cơ quan có thẩm quyền theo đúng quy định của pháp
luật. Do đó, Hợp đồng thế chấp và Phụ lục sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp
mà bà B1 và VPBank đã ký kết với nhau đã bảo đảm đúng theo quy định tại
các Điều 317, 318, 319, 320, 321, 322, 323 của Bộ luật Dân sự năm 2015; các
Điều 4, 5, 8, 10, 11 của Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19-11-1999 của
Chính Phủ về giao dịch bảo đảm; các Điều 4, 9, 12 của Nghị định số
163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ và Nghị định số
11/2012/NĐ-CP ngày 22-02-2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Điều
của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ. Do vậy,
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của
người khác số 714532 ngày 15-6-2018 và Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ ngày
17-6-2019 sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ của người khác số 714532 ký ngày 15-6-2018 mà bà Trần
Thị B1 và VPBank đã ký kết với nhau là hợp pháp. Nên, có hiệu lực thi hành
và có giá trị thực hiện.
Xét việc thực hiện hợp đồng tín dụng của vợ chồng anh T, chị H thì thấy
trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng mà vợ chồng anh T, chị H và
VPBank đã ký kết với nhau nêu trên thì vợ chồng anh T, chị H đã trả cho
VPBank được khoản tiền lãi theo thỏa thuận được đến hết ngày 10-01-2021,
với số tiền đã trả là 154.720.002 đồng, trong đó số tiền lãi trong hạn là
154.719.725 đồng, số tiền lãi chậm trả là 277 đồng, sau đó từ ngày 11-01-2021
cho đến nay thì vợ chồng anh T, chị H không có trả thêm cho VPBank được
bất kỳ khoản tiền nào nữa. Như vậy, tính đến ngày 23-9-2024 vợ chồng anh T,
chị H còn nợ của VPBank tổng số tiền là 1.295.760.037 đồng, trong đó số tiền
nợ gốc là 682.000.000 đồng, số tiền nợ lãi trong hạn là 512.211.535 đồng và số
tiền nợ lãi chậm trả gốc và lãi là 101.548.502 đồng. Xét việc thực hiện nghĩa
vụ trả nợ của vợ chồng anh T, chị H đã vi phạm điều khoản về trả nợ gốc, lãi
15
tiền vay đã được quy định trong Hợp đồng tín dụng mà vợ chồng anh T, chị H
và VPBank đã ký kết với nhau. Do đó, VPBank yêu cầu vợ chồng anh T, chị H
phải thanh toán trả cho VPBank toàn bộ các khoản tiền còn nợ của Hợp đồng
tín dụng số LN1906131458962 ngày 17-6-2019 với số tiền tính đến ngày 23-9-
2024 là 1.295.760.037 đồng, trong đó số tiền nợ gốc là 682.000.000 đồng, số
tiền lãi trong hạn là 512.211.535 đồng và số tiền nợ lãi chậm trả gốc và lãi là
101.548.502 đồng là hoàn toàn có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp
luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
VPBank, buộc vợ chồng anh T, chị H phải liên đới thanh toán trả cho VPBank
toàn bộ số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số LN1906131458962 ngày 17-
6-2019 với tổng số tiền là 1.295.760.037 đồng, trong đó số tiền nợ gốc là
682.000.000 đồng, số tiền lãi trong hạn là 512.211.535 đồng và số tiền nợ lãi
chậm trả gốc và lãi là 101.548.502 đồng; ngoài ra kể từ ngày tiếp theo của
ngày xét xử sơ thẩm thì vợ chồng anh T, chị H còn phải tiếp tục chịu khoản
tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc và lãi chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà
các bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số LN1906131458962 ngày
17-6-2019 cho đến khi nào vợ chồng anh T, chị H thanh toán xong hết khoản
nợ cho VPBank và trong trường hợp VPBank có văn bản về việc điều chỉnh lãi
suất và việc điều chỉnh lãi suất phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật
quy định về lãi, lãi suất có hiệu lực tại thời điểm điều chỉnh lãi, lãi suất thì lãi
suất vợ chồng anh T, chị H phải tiếp tục thanh toán được áp dụng theo sự điều
chỉnh của VPBank. Trường hợp nếu vợ chồng anh T, chị H không thực hiện
hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho VPBank theo quyết định của
bản án thì VPBank có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm
quyền kê biên, phát mại tài sản bảo đảm theo Hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác số 714532 ngày 15-6-
2018 và Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ ngày 17-6-2019 sửa đổi, bổ sung Hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người
khác số 714532 ký ngày 15-6-2018 để thu hồi nợ. Trường hợp phát mại tài sản
bảo đảm nếu sau khi thanh toán hết khoản nợ cho VPBank và các khoản chi
phí khác theo quy định của pháp luật mà còn thừa tiền thì VPBank có trách
nhiệm phải thanh toán trả cho vợ chồng anh T, chị H số tiền còn thừa, còn nếu
phát mại tài sản bảo đảm mà không đủ tiền để trả nợ cho VPBank thì vợ chồng
anh T, chị H phải có trách nhiệm tiếp tục trả hết toàn bộ khoản nợ còn lại cho
VPBank.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của VPBank được
chấp nhận toàn bộ nên VPBank không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, số tiền
VPBank đã nộp tạm ứng án phí hoàn trả lại cho VPBank. Buộc vợ chồng anh
T, chị H phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với số tiền mà vợ
chồng anh T, chị H phải trả nợ cho VPBank, với số tiền án phí là: 36.000.000đ
+ (495.760.037đ x 3%) = 50.872.801 đồng.
[5] Đối với anh Trần Thế Tr và chị Trần Thị M là những người thuộc
hàng thừa kế thứ nhất của bà Trần Thị B1. Do đó, anh Tr và chị M được quyền
hưởng thừa kế di sản của bà B1 để lại. Xét tài sản mà bà B1 đã thế chấp cho
VPBank để bảo đảm cho khoản vay vốn của vợ chồng anh T, chị H tại
16
VPBank như đã nêu ở trên là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bà B1.
Nên, anh Tr và chị M được quyền hưởng thừa kế tài sản mà bà B1 đã thế chấp
cho VPBank. Do đó, nếu VPBank yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm
quyền kê biên, phát mại tài sản bảo đảm mà bà B1 đã thế chấp cho VPBank để
thu hồi nợ thì sau khi cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền kê biên, phát
mại tài sản bảo đảm mà bà B1 đã thế chấp cho VPBank thì anh Tr và chị M
được quyền khởi kiện vợ chồng anh T, chị H đối với phần tài sản mà bà B1 đã
thế chấp cho VPBank bằng một vụ kiện dân sự khác nếu có yêu cầu.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 116, 117, 119, 120, 274, 275, 278, 280, 292, 293,
295, 298, 299, 301, 303, 307, 317, 318, 319, 320, 321, 322, 323, 325, 335, 336,
342, 351, 357, 398, 401, 403, 429, 463, 466, 468 và Điều 615 của Bộ luật Dân
sự năm 2015;
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 và các
Điều 92, 144, 147, 186, 227, 228, 235, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015;
Căn cứ vào các Điều 91, 95 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa
đổi, bổ sung năm 2017;
Căn cứ vào các Điều 27, 37 của Luật Hôn nhân gia đình;
Căn cứ vào các Điều 167, 168, 170, 179 của Luật đất đai năm 2013;
Căn cứ vào các Điều 4, 5, 8, 10, 11 của Nghị định số 165/1999/NĐ-CP
ngày 19-11-1999 của Chính Phủ về giao dịch bảo đảm; các Điều 4, 9, 12 của
Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ và Nghị định
số 11/2012/NĐ-CP ngày 22-02-2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ về
giao dịch bảo đảm;
Căn cứ vào các Điều 7, 8, 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP
ngày 11-01-2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;
Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ
phần Việt Nam Thịnh Vượng (Viết tắt là VPBank).
1. Buộc vợ chồng anh Trần Thế T, chị Trần Thị H phải liên đới thanh
toán trả cho VPBank toàn bộ các khoản tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số
số LN1906131458962 ngày 17-6-2019 tính đến ngày 23-9-2024 với tổng số
tiền là: 1.295.760.037đ (Một tỷ hai trăm chín mươi năm triệu bẩy trăm sáu
mươi nghìn không trăm ba mươi bẩy đồng), trong đó khoản tiền nợ gốc số tiền
là: 682.000.000đ (Sáu trăm tám mươi hai triệu đồng), khoản tiền nợ lãi trong
hạn số tiền là: 512.211.535đ (Năm trăm mười hai triệu hai trăm mười một
nghìn năm trăm ba mươi năm đồng và khoản tiền nợ lãi chậm trả gốc và lãi số
17
tiền là: 101.548.502đ (Một trăm linh một triệu năm trăm bốn mươi tám nghìn
năm trăm linh hai đồng).
2. Buộc vợ chồng anh Trần Thế T, chị Trần Thị H còn phải tiếp tục chịu
các khoản tiền lãi phát sinh kể từ ngày 24-9-2024 cho đến khi vợ chồng anh
Trần Thế T, chị Trần Thị H thanh toán xong hết toàn bộ khoản nợ cho VPBank
theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số
LN1906131458962 ngày 17-6-2019. Trường hợp VPBank có văn bản điều
chỉnh lãi suất và việc điều chỉnh lãi suất phù hợp với các văn bản quy phạm
pháp luật quy định về lãi, lãi suất có hiệu lực tại thời điểm điều chỉnh lãi, lãi
suất thì mức lãi suất vợ chồng anh Trần Thế T, chị Trần Thị H phải tiếp tục
thanh toán cho VPBank được áp dụng theo sự điều chỉnh của VPBank.
3. Về xử lý tài sản bảo đảm: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu
vợ chồng anh Trần Thế T, chị Trần Thị H không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho VPBank theo quyết định của bản án thì
VPBank có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền kê biên,
phát mại tài sản bảo đảm mà bà Trần Thị B1 đã thế chấp cho VPBank để thu
hồi nợ cho VPBank. Tài sản bảo đảm mà bà Trần Thị B1 đã thế chấp cho
VPBank là toàn bộ quyền sử dụng đất tại thửa đất số 168, tờ bản đồ số 9, bản
đồ địa chính thị trấn G lập năm 2002, chỉnh lý năm 2018, địa chỉ của thửa đất:
Tổ dân phố VC, thị trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định, diện tích của thửa đất
379m
2
, thửa đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CG 595194, số
vào số cấp GCN: CS01212 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Nam Định
cấp ngày 17-4-2018, đứng tên người sử dụng đất là bà Trần Thị B1. Tài sản
bảo đảm theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ của người khác số 714532 ngày 15-6-2018, hợp đồng đã được công
chứng tại Văn phòng Công chứng Ngọc Ban, số công chứng 1872, quyển số
01/2018/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 15-6-2018 và Phụ lục hợp đồng số
01/PLHĐ ngày 17-6-2019 sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp quyền sử dụng
đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác số 714532 ký ngày 15-6-
2018, phụ lục hợp đồng đã được công chứng tại Văn phòng Công chứng Ngọc
Ban, số công chứng 1948b, quyển số 01/2019/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 17-6-
2019 cùng toàn bộ các tài sản hiện có gắn liền trên thửa đất số 168.
Trường hợp phát mại tài sản bảo đảm nếu sau khi thanh toán hết khoản
nợ của VPBank và các khoản chi phí khác theo quy định của pháp luật mà còn
thừa tiền thì VPBank có trách nhiệm phải thanh toán trả cho vợ chồng anh
Trần Thế T, chị Trần Thị H số tiền còn thừa, còn nếu phát mại tài sản bảo đảm
mà không đủ tiền để thanh toán hết khoản nợ của VPBank thì vợ chồng anh
Trần Thế T, chị Trần Thị H có trách nhiệm phải tiếp tục thanh toán trả hết toàn
bộ khoản tiền còn nợ của VPBank.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc vợ chồng anh Trần Thế T, chị Trần
Thị H phải liên đới nộp số tiền án phí dân sự sơ thẩm là: 50.872.800đ (Năm
mươi triệu tám trăm bẩy mươi hai nghìn tám trăm đồng). Trả lại cho VPBank
số tiền 21.500.000đ (Hai mươi mốt triệu năm trăm nghìn đồng), VPBank đã
nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số
18
00001633 ngày 03-4-2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Nam
Định.
5. Về quyền kháng cáo: VPBank được quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh T, chị H, anh Tr và chị M được
quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án
hoặc kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền tự nguyện thi hành án, thỏa thuận thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi
hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- TAND tỉnh Nam Định;
- VKSND tỉnh Nam Định;
- VKSND huyện V;
- CCTHADS huyện V;
- UBND thị trấn G;
- Lưu hồ sơ vụ án;
- Lưu VP Tòa án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Văn Quân
19
Tải về
Bản án số 04/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 04/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 24/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 01/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 30/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 30/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 29/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm