Bản án số 02/2024/HS-ST ngày 09-01-2024 của TAND tỉnh Bình Định về tội giết người
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
02-2024-HS-ST-BINH-DINH
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
02-2024-HS-ST-BINH-DINH
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 02/2024/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 02/2024/HS-ST ngày 09-01-2024 của TAND tỉnh Bình Định về tội giết người |
|---|---|
| Tội danh: | 123.Tội giết người (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Định |
| Số hiệu: | 02/2024/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 09/01/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Đinh A N phạm tội giết người |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BÌNH ĐỊNH Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 02/2024/HS-ST
Ngày: 09-01-2024
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Bà Nguyễn Thị Hoài Xuân
Thẩm phán: Ông Văn Thanh Gia
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Huỳnh Kính.
Ông Đặng Thành Trưng.
Bà Nguyễn Thị Hồng Vân.
- Thư ký phiên tòa: Bà Huỳnh Thị Khánh Nhi là Thư ký Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Định.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định tham gia phiên toà:
Ông Nguyễn Minh Hoàng - Kiểm sát viên
Ngày 09 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét
xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 103/2023/TLST-HS ngày
20/11/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 297/2023/QĐXXST-HS
ngày 11/12/2023 đối với bị cáo:
Đinh A N, sinh ngày 26/3/1985 tại Bình Định; nơi cư trú: Làng H, xã V,
huyện V, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 03/12; dân
tộc: Bana; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đ
(chết) và bà: Đinh Thị P (chết); vợ: Đinh Thị É, sinh năm: 1995, con: có 01 con
sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày
29/6/2023 (Có mặt).
Người bào chữa cho bị cáo Đinh A N: Ông Lê Quang K - Luật sư Văn
phòng L1 thuộc Đoàn luật sư tỉnh B (Có mặt).
Địa chỉ: I D, thành phố Q, tỉnh Bình Định.
- Bị hại: Chị Đinh Thị É, sinh năm: 1995; Trú tại: Làng H, xã C, huyện V,
tỉnh Bình Định (Có mặt).
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại bà Đinh Thị É: Bà
Nguyễn Thị Hồng T – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý
Nhà nước tỉnh B (Có mặt).
Địa chỉ: A Đ, thành phố Q, tỉnh Bình Định.
- Người làm chứng:
1. Ông Đinh T1, sinh năm: 1989 (Có mặt).
2. Bà Đinh Thị N1, sinh năm: 1993 (Vắng mặt).
3. Ông Đinh K1, sinh năm: 1981 (Có mặt).
Đồng trú: Làng H, xã C, huyện V, tỉnh Bình Định.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Đinh A N với chị Đinh Thị É kết hôn vào năm 2014, cùng sinh sống tại
Làng H, xã V, huyện V, tỉnh Bình Định và có 01 con chung là cháu Đinh A T2
(Sinh năm: 2015). Từ khi đến kết hôn đến năm 2022 cuộc sống vợ chồng vẫn
diễn ra bình thường. Nhưng đến cuối năm 2022 khi chị É đi làm thuê ở tỉnh Gia
Lai và có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác, nên về nhà chị É đề nghị ly
hôn nhưng N không đồng ý vì còn tình cảm với chị É. Đến tháng 5/2023, chị É
mang thai nhưng N nghi ngờ không phải con của mình, đồng thời hoàn cảnh gia
đình khó khăn, lo không nuôi được con nên N yêu cầu chị É phá bỏ thai, chị É
đồng ý và đi phá thai.
Vào ngày 23/6/2023, vợ chồng N, chị É cùng ký vào đơn ly hôn và dự
định đến Thứ 2 (ngày 26/6/2023) sẽ đi nộp đơn ly hôn. Sau đó, N dẫn cháu Đinh
A T2 đến nhà anh Đinh L (anh ruột N) ở thôn K, xã V, huyện V ở lại chơi, đến
chiều ngày 25/6/2023 chị É gọi điện thoại nói N về nhà để nói chuyện liên quan
đến việc ly hôn. Đến khoảng 21 giờ ngày 25/6/2023, vợ chồng N, chị É nói
chuyện về việc ly hôn nhưng N thay đổi ý định không ly hôn nữa, mong muốn
vợ chồng được đoàn tụ nhưng chị É nhất quyết đòi ly hôn vì không còn tình cảm
với N nữa. Lúc này, N nảy sinh ý định giết chết chị É, rồi tự sát, N liền đi xuống
phòng bếp lấy 01 con dao Thái Lan (dài 21,3cm, cán dao màu vàng chiều dài
11cm, lưỡi dao bằng kim loại mũi nhọn dài 10,3cm, rộng nhất 1,8cm) cầm ở tay
phải đi vào phòng ngủ thấy chị É đang ngồi dưới sàn nhà thì N đến đứng đối
diện với chị É nói “Có chấp thuận quay lại không, nếu không tôi đâm cả hai
cùng chết” nhưng chị É vẫn đòi ly hôn, N liền cúi người ngồi xuống, tư thế gối
phải quỳ xuống sàn nhà, tay trái nắm giữ tay phải của chị É, còn tay phải cầm
dao đâm mạnh 01 nhát theo hướng từ trên xuống trúng vào ngực trái của chị É
làm lưỡi dao bị gãy, chị É ôm ngực bỏ chạy ra khỏi nhà kêu cứu “Giá ơi, Bá T3
đâm con rồi”, khi chạy qua đến nhà anh Đinh T1 (cạnh nhà N) thì ngã gục bất
tỉnh. Sau khi chị É bỏ chạy, N cầm phần cán dao bị gãy bỏ vào rổ nhựa ở nhà
3
bếp, rồi lấy 01 con dao Thái Lan khác (chiều dài 21cm, cán dao màu vàng, phần
lưỡi dài 12cm, rộng nhất 1,8cm) tự đâm vào ngực 04 nhát để tự sát và gục ngã
tại hè nhà. Chị Đinh Thị N1 (vợ anh Đinh T1) nghe tiếng kêu cứu nên từ trong
nhà chạy ra thấy chị É chạy đến ngã gục trên thềm nhà mình thì chạy lại ôm đỡ
chị É và hướng về nhà N nói lớn “Không sống được với nhau thôi, sao giết nhau
vậy”, đồng thời la lớn để hàng xóm biết đến hỗ trợ cấp cứu chị É, còn anh Đinh
T1 chạy đi báo cáo Công an. Chị É và N bị thương tích được đưa đến Trung tâm
y tế huyện V cấp cứu, rồi chuyển đến Bệnh viện đa khoa tỉnh B cấp cứu, điều trị.
Đến ngày 10/7/2023 chị É và N xuất viện.
- Qúa trình khám nghiệm hiện trường, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh B thu
được chất màu nâu tại các vị trí như sau:
+ Chất màu nâu thu tại nền sàn phòng ngủ nhà Đinh A N (vị trí 1 theo
biên bản khám nghiệm hiện trường).
+ Chất màu nâu thu tại nền hè nhà Đinh A N (vị trí 2 theo biên bản khám
nghiệm hiện trường).
+ Chất màu nâu dính trên thân và lá cây của hàng rào cây xanh (vị trí 3
theo biên bản khám nghiệm hiện trường).
+ Chất màu nâu trên nền đất và dính trên lưỡi dao (vị trí 4 theo biên bản
khám nghiệm hiện trường).
+ Chất màu nâu dính trên con dao (vị trí 5 theo biên bản khám nghiệm
hiện trường).
+ Chất màu nâu trên cán dao thu ở phòng bếp (vị trí 6 theo biên bản khám
nghiệm hiện trường).
- Tại Bản kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số:
228/KLTTCT-PYBĐ ngày 04/8/2023 của Trung tâm Pháp y tỉnh B kết luận đối
với Đinh Thị É như sau:
+ Các kết quả chính:
Vết thương gian sườn II cạnh ức trái chảy nhiều máu, da niêm mạc nhợt,
huyết áp 60/30mmHg được phẫu thuật.
Mổ ngực thấy: Vết thương thủng phổi thùy trên bên trái. Rách màng
ngoài tim, nhiều máu trào ra khỏi màng ngoài tim. Thủng động mạch phổi trái
cách chỗ chia đôi 2cm.
Tiến hành: Khâu lại lỗ thủng động mạch phổi trái. Khâu lại màng ngoài
tim. Khâu lại lỗ thủng phổi. Dẫn lưu màng phổi trái.
Hiện ngực trái: Để sẹo mổ trùng sẹo vết thương, sẹo lồi, dính. Hai sẹo dẫn
lưu.
+ Kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Đinh Thị É tại thời
điểm giám định là 39%, áp dụng phương pháp cộng tại Thông tư.
4
- Tại Bản kết luận giám định số: 1461/KL-KTHS ngày 27/7/2023 của
Phân viện Khoa học hình sự tại TP . kết luận về đối tượng giám định như sau.
+ Trong các chất màu nâu ghi thu tại vị trí số 1, số C, số 4, trên lưỡi dao
ghi thu tại vị trí số 4 và trên cán dao ghi thu tại vị trí số 6 có máu của Đinh Thị
É.
+ Trong chất màu nâu ghi thu tại vị trí số 2 và trên phần lưỡi của con dao
ghi thu tại vị trí số 5 có máu của Đinh A N.
+ Trên phần cán của con dao ghi thu tại vị trí số 5 có máu của Đinh A N
và Đinh Thị É.
Về vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra tạm giữ gồm 01 lưỡi dao bằng kim
loại mũi nhọn, 01 cán dao màu vàng bị gãy lưỡi, 01 con dao cán màu vàng.
Về dân sự: Chị Đinh Thị É không yêu cầu Đinh A N bồi thường về dân
sự.
Bản cáo trạng số 113/CT-VKSBĐ-P2 ngày 17/11/2023 Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Bình Định đã truy tố bị cáo Đinh A Nhang về tội “Giết người”
theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Đinh A N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và
không có ý kiến tranh luận.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định luận tội và
đề nghị: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Đinh A N về tội “Giết người” và
áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 15, khoản 3
Điều 57 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đinh A N từ 08 đến 09 năm tù về
tội “Giết người”.
Về phần dân sự: Tại phiên toà, bị hại Đinh Thị É không yêu cầu bị cáo bồi
thường nên hội đồng xét xử không xem xét.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của
Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu huỷ toàn bộ vật chứng vụ án.
Luật sư Lê Quang K bào chữa cho bị cáo Đinh A N: Bị cáo là người dân
tộc thiểu số, trình độ văn hoá thấp mới học hết lớp 3, nên nhận thức pháp luật
còn hạn chế, thiếu suy nghĩ nên đã thực hiện hành vi phạm tội, tuy nhiên sau khi
gây án, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã bồi thường thiệt hại
cho bị hại 4.000.000 đồng. Đề nghị hội đồng xét xử căn cứ vào các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều
51; Điều 54; khoản 3 Điều 57 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức án dưới
mức khởi điểm của khung hình phạt cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo thành
công dân tốt cho xã hội
Bà Nguyễn Thị Hồng T – Trợ giúp viên pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại bà Đinh Thị É: Đề nghị hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đinh A
5
N phạm tội “Giết người”. Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo bồi thường cho bị
hại theo quy định tại các Điều 584; 585; 586 của Bộ luật Dân sự.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho
bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như
sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh B,
Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định, Kiểm sát viên trong quá
trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý
kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ
quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do
đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Xuất phát từ mâu thuẩn trong cuộc
sống vợ chồng giữa Đinh A N với chị Đinh Thị É, dẫn đến chị É đòi ly hôn
Nhang, nhưng N mong muốn vợ chồng đoàn tụ, tuy nhiên chị É không đồng ý
mà kiên quyết đòi ly hôn Nhang, N liền sử dụng 01 con dao Thái Lan là hung
khí nguy hiểm đâm mạnh 01 nhát vào ngực trái của chị É gây thương tích với tỷ
lệ tổn thương do thương tích trên gây nên là 39%. Bị cáo sử dụng dao là hung
khí nguy hiểm đâm vào vùng ngực là vùng trọng yếu trên cơ thể bị hại nhằm
tước đoạt tính mạng của chính người vợ của mình, tuy nhiên bị hại may mắn
thoát chết do được cấp cứu kịp thời. Hành vi nêu trên của bị cáo Đinh A N thể
hiện bản tính côn đồ, hung hãn, chỉ vì một mâu thuẫn giữa vợ chồng mà bị cáo
sẵn sàng thực hiện dã tâm nhằm đoạt mạng sống của chính người vợ của mình.
Do đó hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” với
tình tiết “Có tính chất côn đồ” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật
Hình sự, như Bản cáo trạng số 113/CT-VKSBĐ-P2 ngày 17/11/2023 Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Bình Định đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Hành vi bị cáo gây ra là rất nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm
đến sức khỏe, tính mạng của bị hại, đồng thời làm mất trật tự an toàn xã hội tại
địa phương. Do đó, cần phải xử phạt bị cáo bằng pháp luật hình sự để để răn đe,
cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.
[4] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
[4.1] Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Đinh A N thành
khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự nguyện bồi thường cho bị hại 4.000.000
đồng, tại phiên toà bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên được áp dụng
6
các điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Hành vi giết người
đã hoàn thành nhưng hậu quả chết người chưa xảy ra nên bị cáo phạm tội chưa
đạt và được áp dụng thêm Điều 15, khoản 3 Điều 57 của Bộ luật Hình sự.
[4.2] Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Xét thấy, bị cáo Đinh A N có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, bị cáo còn là người
dân tộc thiểu số, trình độ nhận thức pháp luật còn hạn chế, hơn nữa bị hại chị
Đinh Thị É (vợ bị cáo) xin hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên
hội đồng xét xử cân nhắc xử phạt bị cáo mức án dưới mức khởi điểm của khung
hình phạt cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo thành công dân tốt cho xã hội.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Đinh Thị É không yêu cầu bị cáo bồi
thường thiệt hại, tuy nhiên gia đình bị cáo đã bồi thường cho chị É 4.000.000
đồng. Tại phiên toà chị É không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên hội đồng
xét xử không xem xét.
[7] Phần xử lý vật chứng:
- Phần còn lại sau giám định: Chất màu nâu thu tại nền sàn phòng ngủ nhà
Đinh A N (vị trí 1 theo biên bản khám nghiệm hiện trường); Chất màu nâu thu
tại nền hè nhà Đinh A N (vị trí 2 theo biên bản khám nghiệm hiện trường); Chất
màu nâu dính trên thân và lá cây của hàng rào cây xanh (vị trí 3 theo biên bản
khám nghiệm hiện trường); Chất màu nâu trên nền đất (vị trí 4 theo biên bản
khám nghiệm hiện trường) là vật chứng của vụ án không có giá trị nên theo quy
định tại điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên tịch thu tiêu
hủy.
- Đối với 01 (một) lưỡi dao bằng kim loại mũi nhọn, trên lưỡi dao có in
chữ KIWI-BRAND, dài 10,3cm, rộng nhất 1,8cm (thụ tại vị trí 4 theo biên bản
khám nghiệm hiện trường); 01 (một) con dao cán vàng nhãn hiệu KIWWI có
tổng chiều dài 21cm, phần lưỡi dài 12cm, rộng nhất 1,8cm (thu tại vị trí 5 theo
biên bản khám nghiệm hiện trường); 01 (một) cán dao màu vàng bị gãy lưỡi,
chiều dài còn lại 11 cm, trên thân dao có chữ KIWI (thu tại vị trí 6 theo biên bản
khám nghiệm hiện trường) là công cụ phương tiện phạm tội nên theo quy định
tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu huỷ.
[8] Về án phí: Theo quy định tại các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng
hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Đinh A
N là người dân tộc thiểu số nên không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
[9] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định luận tội và đề nghị xử
phạt bị cáo Đinh A N từ 08 đến 09 năm tù về tội “Giết người” là phù hợp với
nhận định của hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
7
[10] Luật sư đưa ra luận cứ bào chữa cho bị cáo Đinh A N; Trợ giúp viên
pháp lý phát biểu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại Đinh Thị É đều
phù hợp với nhận định của hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 15; khoản 3 Điều 57; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự;
Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 Điều 106; Điều 135; Điều 136 của Bộ luật
Tố tụng hình sự;
Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khóa
14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đinh A N phạm tội “Giết người”.
2. Về hình phạt:
Xử phạt: Bị cáo Đinh A N 08 (Tám) năm tù về tội “Giết người”, thời hạn
tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 29/6/2023.
3. Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu huỷ:
- Phần còn lại sau giám định: Chất màu nâu thu tại nền sàn phòng ngủ nhà
Đinh A N (vị trí 1 theo biên bản khám nghiệm hiện trường); Chất màu nâu thu
tại nền hè nhà Đinh A N (vị trí 2 theo biên bản khám nghiệm hiện trường); Chất
màu nâu dính trên thân và lá cây của hàng rào cây xanh (vị trí 3 theo biên bản
khám nghiệm hiện trường); Chất màu nâu trên nền đất (vị trí 4 theo biên bản
khám nghiệm hiện trường).
- 01 (một) lưỡi dao bằng kim loại mũi nhọn, trên lưỡi dao có in chữ
KIWI-BRAND, dài 10,3cm, rộng nhất 1,8cm (thụ tại vị trí 4 theo biên bản khám
nghiệm hiện trường).
- 01 (một) con dao cán vàng nhãn hiệu KIWWI có tổng chiều dài 21cm,
phần lưỡi dài 12cm, rộng nhất 1,8cm (thu tại vị trí 5 theo biên bản khám nghiệm
hiện trường).
- 01 (một) cán dao màu vàng bị gãy lưỡi, chiều dài còn lại 11cm, trên thân
dao có chữ KIWI (thu tại vị trí 6 theo biên bản khám nghiệm hiện trường).
Toàn bộ vật chứng nêu trên được đựng trong một phòng bì, dán kín, tại
phần mép có hình dấu của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng,
chữ ký ghi Lê Văn Đ, Trần Đình N2.

8
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/11/2023 tại Cục thi hành án
dân sự tỉnh Bình Định).
4. Về án phí: Bị cáo Đinh A N không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo và những người tham gia tố
tụng có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm,
những người tham gia tố tụng vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày
kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Nơi nhn:
- Vụ GĐKT 1 - TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Bình Định;
- Trại tạm giam Công an tỉnh Bình Định;
- Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Định;
- Cơ quan THAHS&HTTP Công an tỉnh Bình Định;
- Cơ quan HSNV Công an tỉnh Bình Định;
- Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Định;
- Sở tư pháp tỉnh Bình Định;
- Phòng KTNV&THA tỉnh Bình Định
- Người tham gia tố tụng;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XT X SƠ THM
Thẩm phán-Chủ tọa phiên tòa
Nguyễn Thị Hoài Xuân
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 15/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 09/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 11/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 11/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 26/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 02/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 25/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 25/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 23/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 22/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 15/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 12/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 08/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 04/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 29/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 27/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 26/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 21/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm