Bản án số 02/2024/HS-ST ngày 12-01-2024 của TAND tỉnh Hà Giang về về tội giết người
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
02_2024_HS-ST_ HA GIANG
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
02_2024_HS-ST_ HA GIANG
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 02/2024/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 02/2024/HS-ST ngày 12-01-2024 của TAND tỉnh Hà Giang về về tội giết người |
|---|---|
| Tội danh: | 123.Tội giết người (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Hà Giang |
| Số hiệu: | 02/2024/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 12/01/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Phàn Văn H phạm tội "Giết người" |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HÀ GIANG
Số: 02/2024/HS-ST
Ngày 12- 01-2024
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phạm Thị Thanh Loan.
Thẩm phán: Ông Lâm Anh Luyện.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Vũ Ngọc Sơn,
2. Bà Bàn Thị Ba,
3. Ông Phan Ngọc Thắng.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Đức Trung – Thư ký viên, Tòa án nhân
dân tỉnh Hà Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang tham gia phiên tòa:
Ông Phùng Bá Thuận - Kiểm sát viên.
Ngày 12/01/2024, tại Phòng xử án hình sự, trụ sở Toà án nhân dân tỉnh
Hà Giang, xét xử sơ thẩm công khai Vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số
58/2023/TLST-HS ngày 24 tháng 11 năm 2023 theo Quyt định đưa vụ án ra xét
xử số 69/QĐXXST-HS ngày 29/12/2023 đối với bị cáo:
Phàn Văn H (tên gọi khác: Không có); sinh ngày 26/3/1973, tại xã B,
huyện Q, tỉnh Hà Giang. Nơi cư trú: Xóm 5 thôn T, xã B, huyện Q, tỉnh Hà
Giang; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Dao; giới tính:
Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; là Đảng viên, sinh hoạt tại chi bộ
thôn T, Đảng bộ xã B, huyện Q; bị đình chỉ sinh hoạt đảng theo Quyt định số
60 -QĐ/UBKTHU ngày 25/8/2023 của Uỷ ban Kiểm tra huyện uỷ Q; con ông
Phàn Văn T (đã cht) và bà Phàn Thị T (là bị hại trong vụ án đã cht); có vợ là
Đặng Thị T, sinh năm 1972; bị cáo có 05 con, con lớn sinh năm 1990, con nhỏ
sinh năm 2006; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không;
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 17/8/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại
tạm giam Công an tỉnh Hà Giang; có mặt;
Người bào chữa cho bị cáo Phàn Văn H: Bà Phạm Thị Loan - Luật sư
thuộc Văn phòng Luật sư Phạm Thị Loan và cộng sự thuộc Đoàn Luật sư tỉnh
Hà Giang; có mặt.
2
Bị hại: Bà Phàn Thị T, sinh năm 1937 (đã cht).
Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Phàn Văn Á, sinh năm 1959.
Nơi cư trú: Xóm 5, thôn T, xã B, huyện Q, tỉnh Hà Giang; có mặt.
Người làm chứng:
1. Ông Phàn Văn V, bà Đặng Thị T; có mặt.
2. Ông Tráng Văn S: Vắng mặt.
Đều trú tại: Xã B, huyện Q, tỉnh Hà Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn bin tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 19 giờ 30 phút ngày 16/8/2023 Công an xã B, huyện Q, tỉnh Hà Giang,
tip nhận tin báo qua điện thoại của anh Tăng Văn C, sinh năm 1968 trú tại thôn T,
xã B, huyện Q, báo tin về việc bà Phàn Thị T, sinh năm 1937 (trú cùng thôn) cht
chưa rõ nguyên nhân tại nhà riêng, trên vùng trán có vt thương chảy máu, vùng
ngực có vt bầm tụ máu diện rộng. Sau khi tip nhận nguồn tin Công an xã đã tin
hành tổ chức lực lượng đn hiện trường, bảo vệ hiện trường, đồng thời báo cáo
Công an huyện để tổ chức xác minh điều tra, xác định vụ việc trên không thuộc
thẩm quyền giải quyt, nên Công an huyện Q đã báo cáo Cơ quan CSĐT Công an
tỉnh Hà Giang tip nhận để giải quyt theo thẩm quyền, quá trình điều tra đã xác
định như sau. Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 16/8/2023, Phàn Văn H, sinh năm
1973, trú tại thôn T, xã B, huyện Q, tỉnh Hà Giang, sau khi đi ăn cơm và uống rượu
tại nhà ông Đặng Văn N, sinh năm 1963, trú cùng thôn (tên thường gọi là Cụ B)
khi về đn nhà H nhìn thấy bà Phàn Thị T, sinh năm 1937 (là mẹ đẻ H) đang đứng
trên lan can cửa sổ trong nhà tại gian thứ ba nghịch bàn thờ (trong quá trình sinh
sống cùng H do tuổi già, chí nhớ không được minh mẫn nên bà T thường xuyên lục
lọi, bày bừa đồ đạc trong nhà). Lúc này H đi xe máy vào gầm sàn cất xe, sau đó đi
theo cầu thang lên nhà chính thì thấy bà T đang đi đn giữa nhà, rồi tip tục đi qua
H đn gian bp. H không nói gì mà đi đn vị trí cửa sổ gian thứ 2 gần khu bàn thờ
để pha nước uống. Khoảng 03 phút sau nghe thấy ting xoong, nồi ở dưới gian bp
va đập vào nhau, H đứng dậy đi sang gian bp, khi đi đn hành lang giữa gian nhà
chính và gian bp H nhìn thấy bà T đang đứng tại giá để bp ga nghịch xoong, nồi
và lọ đựng mỡ, lúc này H đi thẳng đn vị trí của bà T, đi qua sau lưng rồi dùng hai
tay cầm vào cánh tay trái của bà T kéo về hướng cửa phụ đn cạnh bp củi thì dừng
lại, lúc này bà T quay mặt về phía cửa sổ giữa gian thứ 1 và gian thứ 2 tính từ cửa
phụ vào, H cúi người xuống, tay trái vẫn cầm cánh tay trái của bà T, dùng tay phải
nhặt cầm 01 chic cặp bp bằng cây tre để ở cạnh bp củi, sau đó H đứng dậy bên
phía vai trái của bà T, bà T quay mặt sang nhìn H thì H dùng tay phải cầm chic
cặp bp giơ lên chọc đầu chic cặp liên tip 02 phát với lực mạnh trúng vào vùng
mắt bên trái của bà T, lúc này bà T không có phản ứng gì, H dùng tay trái đang cầm
cánh tay trái của bà T kéo bà T đi về phía cột nhà ở giữa gian thứ nhất và gian thứ
hai, khi đn sát cột nhà thì H kéo bà T ngồi xổm xuống sàn nhà, vai phải của bà T
3
quay về phía cửa sổ và cột nhà, vai trái quay về phía bp củi, H đứng đối diện với
bà T thì nhìn thấy phần mắt trái của bà T bị rách da chảy máu, H tip tục cúi người
xuống dùng hai tay cầm vào sát phần đuôi của chic cặp bp (phần gập), dùng lực
hai tay thúc mạnh phần đuôi của chic cặp trúng vào vùng ngực bên trái của bà T
làm bà T ngã ngồi bệt xuống sàn nhà, sau đó H tip tục thúc phát thứ hai vào vùng
ngực của bà T nhưng không nhớ chính xác vào vị trí nào của vùng ngực làm bà T
dúm người sát vào lan can cửa sổ, tay phải của bà T vẫn nắm vào lan can cửa sổ,
lúc này H quát “Bảo ở nhà đừng có lục nọ, lục kia, đi về đã mệt rồi lại còn phải
dọn, mệt lắm”, bà T không nói gì mà ngồi nhìn ra cửa sổ. H bỏ mặc bà T ngồi đó
và đi sang gian nhà chính uống nước. Khoảng 05 phút sau anh Phàn Văn V, sinh
năm 1975, anh Tráng A S, sinh năm 1976, trú cùng thôn đi xe máy đn nhà H rồi
lên nhà đn vị trí H đang ngồi uống nước, anh V có hỏi xin H tăm để xỉa răng
nhưng H nói ht nên anh V đi sang gian bp để tìm tăm thì thấy bà T đang nằm trên
sàn nhà tại gian bp, anh V gọi anh S sang xem, anh S đi sang xem rồi quay lại hỏi
H “Bà bị mệt à hay bị làm sao?”, H trả lời “Vừa nghịch lục lọi đồ đạc, tôi lấy cặp
chọc cho hai phát”, anh V và anh S mang chăn sang đắp cho bà T, còn H đứng dậy
đi sang lật chăn ra khỏi người bà T thì thấy bà T vẫn thở. H không nói gì rồi đưa V
và anh S đi xem đồi keo, để thuê phát cỏ, khoảng 10 phút sau quay về nhà H đứng
ở sân nói chuyện. Lúc này chị Đặng Thị T (Vợ của H), sinh năm 1972 cùng hai
cháu ngoại là Phàn Văn A, sinh năm 2010 và Phàn Thị H, sinh năm 2009 đi làm về
đn nhà vào gian bp thì nhìn thấy bà T nằm trên sàn nhà, chị T hỏi bà T“Mẹ mệt
à, có ăn cháo, uống nước gì không?”, nhưng không thấy bà T trả lời, còn Học đi
lên gian nhà chính ngồi thì chị T sang hỏi “Bà bị làm sao đấy?”, H trả lời “Lúc
nãy về nó nghịch bàn thờ với bếp, tao lấy cái cặp chọc cho hai cái, nó mệt thì bóp
chân tay cho nó”, chị T không nói gì rồi đi xuống bp xem bà T sau đó gọi H
“Không thấy thở rồi á”, H đi xuống kiểm tra thì không thấy bà T thở, H dùng tay
đỡ đầu bà T và bảo chị T hộ cùng b bà T lên nhà chính để bà T nằm, sau đó H đã
gọi điện thoại cho anh trai là Phàn Văn Á, sinh năm 1958 , (trú cùng thôn) đn nhà
H, khi anh Á cùng Tăng Văn C, là trưởng thôn T, xã B đn nhà Phàn Văn H, thì
phát hiện bà Phàn Thị T đã cht khoảng 19 giờ cùng ngày, trên cơ thể có nhiều vt
thương đang chảy máu, ông C đã gọi điện thoại báo cáo Công an xã B đn giải
quyt.
Kt luận giám định tử thi số 280/KLGĐTT-KTHS, ngày 31/8/2023 của
Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Hà Giang, kt luận Nguyên nhân cht của
Phàn Thị T:
- Chấn thương ngực (gãy nhiều xương sườn, rách thủng nhu mô phổi) trên
người đa vt thương;
- Thời gian cht của Phàn Thị T: Tính đn thời điểm khám nghiệm Phàn
Thị T cht khoảng 09 giờ.
- Cơ ch hình thành thương tích trên thân thể Phàn Thị T: Các vt rách,
thủng ra, cơ do vật tầy có cạnh gây ra; Các vt bầm tụ máu, gãy nhiều xương
sườn do vật tầy diện tip xúc giới hạn gây ra ( BL 95-96)
4
Kt luận giám định ADN số 476/23/KLGDADN-PYQG ngày 22/8/2023
của Viện pháp y Quốc gia Bộ y t, kt luận:
- Thử định tính phát hiện nhanh vt máu người trên mẫu gửi giám định ký
hiệu A2, Dương tính
- Thử định tính phát hiện nhanh vt máu người trên mẫu gửi giám định ký
hiệu A1, A3, A4, Âm tính
- Không thu được dữ liệu ADN đầy đủ từ mẫu gửi giám định ký hiệu A1 trên
các locus STR đã phân tích nên không thể so sánh với ADN của Phàn Thị T.
- ADN thu từ mẫu ký hiệu A2 trùng khớp hoàn toàn với ADN của Phàn
Thị T trên tất cả các locus STR đã so sánh.
- ADN thu từ mẫu ký hiệu A3, A4 là ADN trộn lẫn của nhiều người và
không thể tách rời ADN của từng người riêng biệt nên không thể so sánh với
ADN của Phàn Thị T.
Kt luận giám định tổn thương cơ thể qua hồ sơ số 07/KLVGTT-TTPY,
ngày 24/10/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Hà Giang, kt luận: 02 chic cặp
bp bằng tre (Gồm: 01 chiếc cặp bếp bằng tre gấp hình chữ V, kích thước dài 33cm,
trọng lượng 100 gam, bản rộng 3,5cm, hai đầu bám dính nhiều tàn than tro có dạng
vuốt hình thoi, một đầu tù; 01 chiếc cặp bếp bằng tre gấp hình chữ V, kích thước dài
48cm, trọng lượng 160gam, bản rộng 3,2cm, hai đầu bám dính nhiều tàn than tro có
dạng vuốt hình thoi, một đầu tù) là hung khí có thể phù hợp để gây nên các vt
thương rách da: Vùng mặt, vùng cổ bên trái tip giáp vùng đòn; ngay dưới bờ
sườn phải; vùng lưng bên phải; hai tay, hai chân, không phù hợp với các thương
tích khác trên cơ thể của Phàn Thị T.
Ngày 28/9/2023, Cơ quan CSĐT Công an, tỉnh Hà Giang phối hợp với
Viện kiểm sát tỉnh Hà Giang, Luật sư, Chính quyền địa phương, tin hành cho bị
cáo đn hiện trường nơi xảy ra vụ án tại gia đình của bị cáo thuộc xóm 5 thôn T,
xã B, huyện Q, tỉnh Hà Giang để tin hành thực nghiệm điều tra. Kt quả: bị cáo
đã mô tả, thực hiện lại toàn bộ động tác, tư th, hành vi phù hợp với kt quả
khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, kt luận giám định và các tài liệu,
chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra thu thập được trong quá trình điều tra.
Cáo trạng số 33/CT-VKS-P2 ngày 23/11/2023 của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Hà Giang truy tố bị cáo Phàn Văn H về tội “Git người” quy định tại
điểm đ, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, bị cáo Phàn Văn H đã khai và thừa nhận khoảng 16 giờ 00
phút ngày 16/8/2023, bị cáo đã dùng chic cặp bp bằng che, gấp hình chữ V của
gia đình bị cáo chọc 02 phát liên tip vào vùng mắt bên trái của bà Phàn Thị T,
sau đó lại tip tục đảo đầu của chic cặp bp rồi dùng bằng 2 tay đẩy mạnh 02
phát liên tip vào phần bên ngực trái của bà T; hậu quả đn khoảng 19 giờ cùng
ngày bà Phàn Thị Ttắt thở rồi cht ngay tại nhà. Nguyên nhân bị cáo thực hiện
hành vi nêu trên là do bực tức bà T đã nhiều lần nghịch bàn thờ và các đồ đạc
trong bp gây ra đổ, vỡ các vật trên bàn thờ và trong bp.

5
Đại diện hợp pháp cho bị hại ông Phàn Văn Á trình bày: Sau khi vụ việc xảy
ra, bị cáo đã H đã gọi điện thoại cho anh để nói lại sự việc. Khi anh đn nhà của bị
cáo H cùng Tăng Văn C (Trưởng thôn) thì phát hiện bà T đã cht. Bị cáo H có nói
với vợ là chị T lo chôn cất hậu sự cho bà T; sau đó bị cáo bị Công an dẫn H đi; anh
đã cùng vợ của bị cáo đứng ra lo chi phí mai táng cho bà T, toàn bộ chi phí là tiền
của bị cáo H và gia đình bị cáo. Anh Á không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm về
bất kỳ chi phí nào khác. Đề nghị HĐXX giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo ở
mức thấp nhất, xử phạt bị cáo H 12 năm tù.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang thực hành quyền công tố,
kiểm sát xét xử tại phiên tòa đã đưa ra các chứng cứ, tài liệu luận tội bị cáo và giữ
nguyên nội dung cáo trạng truy tố; phân tích về nguyên nhân, động cơ phạm tội,
tính chất của vụ án, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các tình tit
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo H và đề nghị Hội
đồng xét xử:
- Tuyên bố bị cáo Phàn Văn H phạm tội “Git người”.
- Về hình phạt: Áp dụng điểm đ, n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1
và khoản 2 Điều 51, điểm i khoản 1 Điều 52; Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự;
xử phạt bị cáo Phàn Văn H từ 15 năm đn 17 năm tù; thời hạn chấp hành hình
phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam.
- Về trách nhiệm dân sự: Đại diện bị hại không yêu cầu đề nghị bồi
thường, nên không xem xét.
- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều
47 của Bộ luật Hình sự; tuyên tịch thu tiêu hủy các vật chứng liên quan đn
hành vi phạm tội và các vật chứng khác không có giá trị sử dụng.
- Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Hình sự, Điều 12 Nghị quyt số
326/2016/NQ-UBTVQH của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Miễn toàn bộ tiền án
phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo H.
Người bào chữa cho bị cáo Phàn Văn H trình bày: Hành vi phạm tội của
bị cáo là rõ ràng, bị cáo Phàn Văn H bị truy tố, xét xử về tội Git người theo quy
định tại điểm đ, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật. Nhất trí với Luận tội và đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên toà
về áp dụng điều luật; án phí đối với bị cáo H. Khi quyt định hình phạt đối với
bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đn nhân thân, điều kiện, hoàn cảnh dẫn
đn bị cáo phạm tội; bị cáo H có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự 03 năm,
sau khi xuất ngũ trở về địa phương luôn thực hiện tốt chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước và được bầu làm Trưởng thôn trong suốt 20 năm;
bị cáo phạm tội lần đầu, nguyên nhân dẫn đn bị cáo phạm tội cũng là do bị hại
đã nhiều lần nghịch đồ làm đổ vỡ các vật trong nhà và bp, bị cáo đã nhắc nhở
nhưng không được, trong người có nhiều bệnh hiểm nghèo, sức khoẻ yu, không
làm chủ được bản thân nên dẫn tới phạm tội; đề nghị áp dụng các tình tit giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật
6
Hình sự; xử phạt bị cáo Phàn Văn H mức thấp nhất của đại diện Viện kiểm sát
đề nghị, để tạo điều kiện cho bị cáo được sớm trở về với gia đình và xã hội, điều
trị bệnh tật.
Phần tranh luận: Bị cáo, đại diện bị hại không nhất trí với quan điểm đề nghị
về mức hình phạt đối với bị cáo của đại diện Viện kiểm sát; đề nghị xét xử bị cáo H
mức khởi điểm của khung hình phạt 12 năm tù.
Đối đáp của Kiểm sát viên: Bị cáo H bị truy tố tại điểm đ, n khoản 1 Điều
123 Bộ luật Hình sự; có 01 tình tit tăng nặng trách nhiệm hình sự; do đó mức
hình phạt đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi
phạm tội của bị cáo gây ra và giữ nguyên quan điểm.
Lời nói sau cùng: Bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình; hiện
nay sức khoẻ bị cáo rất yu phải đi cấp cứu tại Bệnh viện thường xuyên; đề nghị
Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất; để bị cáo sớm
được trở về với gia đình và cộng đồng để chữa trị bệnh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyt định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật
sư trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền,
trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và
tại phiên tòa, bị cáo, đại diện bị hại không có ý kin hoặc khiu nại. Do đó, các
hành vi, quyt định tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về tội danh và định khung hình phạt: Tại phiên toà, bị cáo Phàn Văn H đã
khai và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội; lời khai của bị cáo phù hợp với lời
khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố, thống nhất, ổn định, không có mâu
thuẫn; phù hợp với lời khai của đại diện hợp pháp bị hại, người làm chứng, Biên
bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản khám nghiệm tử thi, Kt luận giám định
pháp y tử thi, Biên bản thực nghiệm điều tra, các kt luận giám định khác và
các tài
liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Do không hài lòng với việc bà Phàn Thị T sinh năm 1937, tuổi đã cao, tinh thần
không minh mẫn đã nghịch đồ trên bàn thờ và bp nên bị cáo H đã thực hiện hành
vi sử dụng chic cặp bp bằng tre, gấp hình chữ V, kích thước dài 33cm, bản rộng
3,5cm chọc 02 phát liên tip vào vùng mắt bên trái của bà Phàn Thị T, sau đó bị
cáo lại tip tục đảo đầu của chic cặp bp rồi dùng bằng 2 tay cầm sát vào phần
đuôi của chic cặp, khom người đẩy 02 phát với lực mạnh vào phần ngực trái của
bà T. Hậu quả đn khoảng 19 giờ cùng ngày, bà Phàn Thị T tắt thở rồi cht ngay tại
gia đình. Kt luận giám định tử thi số 280/KLGĐTT-KTHS, ngày 31/8/2023 của
Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Hà Giang, kt luận nguyên nhân cht của
Phàn Thị T: Chấn thương ngực (gãy nhiều xương sườn, rách thủng nhu mô phổi)
trên người đa vt thương.
7
[3] Bị cáo Phàn Văn H là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự,
nhận thức được tính mạng, sức khỏe của con người là vốn quý, được pháp luật
bảo vệ; song chỉ vì không hài lòng với việc bà T không nghe lời, bị cáo bất chấp
pháp luật, đã sử dụng chic cặp bp bằng tre của gia đình chọc 02 phát với lực rất
mạnh lên người bà T là mẹ đẻ của bị cáo dẫn tới bà T tử vong. Trong giai đoạn
điều tra và tại phiên toà, bị cáo H đều khai không có động cơ, mục đích git hại
bà T; tuy nhiên bị cáo đã dùng chic cặp bp bằng tre là hung khí nguy hiểm, 02
lần liên tip tác động với lực rất mạnh lên vùng ngực trái của bà T dẫn đn bà T bị
Chấn thương ngực (gãy nhiều xương sườn, rách thủng nhu mô phổi) trên người
đa vt thương và bà T đã bị tử vong; bị cáo nhận thức rõ hành vi của bị cáo tác
động 02 lần với lực mạnh lên vùng ngực trái của bà T khi bà T đạt độ tuổi 86, tuổi
cao, sức yu, sẽ gây nên hậu quả thương tích hoặc dẫn đn cht người cho bị hại
nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện; do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự và
mức hình phạt tương xứng với hậu quả do bị cáo đã gây ra. Hành vi của bị cáo H
là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với lỗi cố ý trực tip, đã tước bỏ
quyền sống của bị hại T một cách trái pháp luật, xâm phạm đn quyền sống của
con người và bị hại chính là mẹ đẻ của bị cáo; vi phạm luân thường đạo lý về
trách nhiệm, nghĩa vụ của người con đối với người mẹ đã sinh thành và bao công
nuôi dưỡng, chăm sóc bị cáo khôn lớn, trưởng thành; gây nên mất mát đau thương
cho gia đình của chính bản thân bị cáo khi các con mất mẹ, các cháu mất bà và
gây hoang mang, sợ hãi bất bình trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đn tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Hành vi của bị cáo
Phàn Văn H đã phạm tội “Git người" với tình tit tăng nặng định khung hình
phạt “Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình” và
“Có tính chất côn đồ” quy định tại điểm đ, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự,
có khung hình phạt tù từ 12 năm đn 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
[4] Về tình tit tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tính đn thời điểm bị cáo
H phạm tội bị hại Phàn Thị T được 86 tuổi. Do vậy bị cáo bị áp dụng tình tit
tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội đối với người ……đủ 70 tuổi trở lên”
quy định tại điểm i khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[5] Về tình tit giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và
tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hồi cải; bản thân bị cáo ngay sau
khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã gọi điện thoại tới người thân để báo tin
về hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời đã tác động đn gia đình để tổ chức mai
táng chu đáo cho bị hại với tổng chi phí 35.000.000 đồng; là người dân tộc thiểu
số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh t, xã hội đặc biệt khó khăn, trình độ nhận
thức pháp luật còn hạn ch; bị cáo đã tham gia nghĩa vụ quân sự 03 năm, khi xuất
ngũ về địa phương, quá trình sinh sống bị cáo luôn chấp hành tốt chủ trương chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và được bầu làm Trưởng thôn với thời gian
tham gia trên 20 năm, bị cáo phạm tội lần đầu; đại diện hợp pháp cho bị hại có đơn
xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và tại phiên toà tip tục xin giảm nhẹ hình phạt
mức thấp nhất cho bị cáo; trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo sức khoẻ
yu, thường xuyên phải đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Giang về bệnh

8
phổi tắc nghẽn mãn tính, bệnh tiểu đường, bệnh gút; là các tình tit giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình
sự; cần áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.
[6] Về hình phạt: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng,
với 02 tình tit định khung tăng nặng hình phạt và 01 tình tit tăng nặng trách
nhiệm hình sự; cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất,
mức độ hành vi phạm tội cũng như hậu quả tội phạm bị cáo đã gây ra. Hội đồng
xét xử áp dụng Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự về căn cứ quyt định hình phạt
và tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định
để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội và gia đình,
đồng thời bảo đảm răn đe và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.
[7] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 4 Điều 123 Bộ luật Hình sự quy định
“Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm”.
Xét thấy, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nghề nghiệp làm ruộng, nên không
cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã tác
động đn gia đình lo chi phí mai táng cho bị hại số tiền 35.000.000 đồng. Tại phiên
toà, đại diện hợp pháp cho bị hại đã xác nhận và không yêu cầu bị cáo có trách
nhiệm bồi thường thêm bất kỳ khoản chi phí nào khác, nên HĐXX không đề cập
xem xét.
[9] Về vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ bao
gồm: 01 phong bì (A1. Chất màu nâu đỏ thu tại hiện trường vị trí số 1) bên trong có 03
đoạn tre dính vt màu nâu đỏ. Ký hiệu mẫu: V476A1_23; 01 phong bì (A2. Chất màu
nâu đỏ thu tại hiện trường vị trí số 4) bên trong có 04 đoạn tre dính vt màu nâu đỏ.
Ký hiệu mẫu: V476A2_23; 01 chic cặp bp bằng tre gấp hình chữ V, kích thước dài
33cm, bản rộng 3,5cm, hai đầu bám dính nhiều tàn than tro có dạng vuốt hình thoi,
một đầu tù; 01 chic cặp bp bằng tre gấp hình chữ V, kích thước dài 48cm, bản rộng
3,2cm, hai đầu bám dính nhiều tàn than tro có dạng vuốt hình thoi, một đầu tù. Các
vật này đều liên quan đn hành vi phạm tội của bị cáo và không còn giá trị sử dụng
được chuyển sang Cục Thi hành án dân sự, tỉnh Hà Giang; cần áp dụng Điều 106 Bộ
luật Tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật Hình sự tuyên tịch thu tiêu huỷ.
[10] Về án phí: Bị cáo Phàn Văn H là người dân tộc thiểu số sinh sống tại
vùng có điều kinh t, xã hội đặc biệt khó khăn, có đơn xin miễn án phí; căn cứ
Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 12, Điều 14 Nghị quyt số
326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;
miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.
[11] Từ những nhận định nêu trên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Hà Giang truy tố bị cáo Phàn Văn H về tội “Git người” quy định tại điểm
đ, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội; nội dung luận
tội và quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà về tội danh, áp
9
dụng điều luật, hình phạt, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí là có căn
cứ, phù hợp với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận.
[12] Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo Phàn Văn H về đề nghị
áp dụng điều luật, mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ, nên được chấp
nhận xem xét.
[13] Quyền kháng cáo: Bị cáo, đại diện bị hại có quyền kháng cáo bản án
theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm đ, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều
51; điểm i khoản 1 Điều 52, Điều 50, Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự;
Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 332, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng
hình sự; Điều 591 Bộ luật Dân sự; Điều 12, Điều 14, Điều 21, khoản 1 Điều 23
Nghị quyt số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phàn Văn H phạm tội "Giết người".
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phàn Văn H 15 (Mười lăm) năm tù, thời
hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 17/8/2023.
3. Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận bị cáo Phàn Văn H đã bồi thường
xong cho gia đình bị hại số tiền 35.000.000 đồng (Ba mươi lăm triệu đồng).
4. Về vật chứng: Tuyên tịch thu tiêu huỷ các vật chứng và các đồ vật sau:
- 01 phong bì (A1. Chất màu nâu đỏ thu tại hiện trường vị trí số 1) bên
trong có 03 đoạn tre dính vt màu nâu đỏ. Ký hiệu mẫu: V476A1_23;
- 01 phong bì (A2. Chất màu nâu đỏ thu tại hiện trường vị trí số 4) bên
trong có 04 đoạn tre dính vt màu nâu đỏ. Ký hiệu mẫu: V476A2_23;
- 01 chic cặp bp bằng tre gấp hình chữ V, kích thước dài 33cm, bản rộng
3,5cm, hai đầu bám dính nhiều tàn than tro có dạng vuốt hình thoi, một đầu tù;
- 01 chic cặp bp bằng tre gấp hình chữ V, kích thước dài 48cm, bản rộng
3,2cm, hai đầu bám dính nhiều tàn than tro có dạng vuốt hình thoi, một đầu tù.
Đặc điểm, tình trạng của các vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày
27/11/2023 giữa Công an tỉnh Hà Giang và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Giang.
5. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Phàn Văn H.
6. Quyền kháng cáo: Bị cáo, đại diện bị hại có mặt tại phiên toà có quyền
kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyt định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng ch thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và
10
9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- VKSND cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Hà Giang;
- PC01, PC02, PV06, PC10 Công an tỉnh Hà
Giang;
- Trại Tạm giam Công an tỉnh Hà Giang;
- Sở Tư pháp tỉnh Hà Giang;
- Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Giang;
- Người tham gia tố tụng;
- Phòng KTNV&THA – TAND tỉnh;
- Bộ phận HCTP - VPTAND ;
- Lưu HS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Thị Thanh Loan
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 15/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 09/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 11/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 11/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 26/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 02/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 25/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 25/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 23/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 22/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 15/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 09/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 08/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 04/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 29/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 27/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 26/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 21/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm